2.4 lần vòng quanh thế giới

 2.4 lần vòng quanh trái đất năm 2025

Ngồi trên máy bay về Hoa Kỳ thì thấy ứng dụng TripIt kêu xem lại tổng quát năm qua nên bấm thử thì thất kinh. Ứng dụng cho biết năm 2025 mình bay vòng vòng 60,866 dặm, xem như đi vòng quanh trái đất đến  2.4 lần. Đó chưa kể chuyến bay từ Đài Bắc về lại Hoa Kỳ. Tổng cộng 94 ngày,  5 chuyến đi viếng 10 quốc gia và 40 thành phố. Để tính lại xem có đúng không nhiều khi ứng dụng bựa ra để mình phải trả tiền. Hiện tại mình dùng miễn phí nhưng hơi cứ kêu mình upgrade này nọ nhưng mình chỉ lâu lâu mới đi chớ đâu có đi thường đâu.

Nhớ khi xưa đọc cuốn vòng quanh trái đất 80 ngày mà nay mình chơi 2.4 vòng quanh trái đất 94 ngày thất kinh luôn. Sang năm chắc chủ yếu đi Âu châu thôi. Á châu xem như đi hết rồi. Đồng chí gái muốn viếng mấy vùng Bắc Âu. 


Đầu năm mình về Việt Nam ăn tết , ghé Hà Nội, núi Ba Vì, Đà Lạt, Nha Trang, Quy Nhơn, Hội An, Huế, Sàigòn và Đà Nẵng. Có mấy thành phố giữa đường thì khỏi kể. 

Về ăn tết với bà cụ lần đầu tiên sau 51 tết ăn ở hải ngoại. Phải ăn Tết sớm ở Cali rồi bay về Việt Nam. Rất thất vọng vì Tết ngày nay ở đó không như xưa vì thiên hạ bỏ Đà Lạt đi chơi xa như các thành phố khác. Hàng xóm thì ai nấy đều có cái cổng to đùng chả biết ai ở nữa. Không có pháo đốt, không có chi là đặc biệt chắc sẽ không về Việt Nam ăn tết nữa. Về ở quê vài tháng khi không mưa mỗi năm cho vui cửa vui nhà. Nếu không xem lại thì mình tuốt luốt các hành trình trong năm nay. Cho thấy tuổi già đã đến. 


Sau Việt Nam mình và đồng chí gái bay đi Úc Đại Lợi, và Tân Tây Lan. Các thành phố ghé lại là Melbourne, Auckland và Sydney trước khi bay về Mỹ. Đây thì vui hơn. Gặp lại ông cậu bà con tiệm Long Hưng 9 đường Duy Tân và Phong tiệm may Văn Gừng khi xưa học chung. Thêm cặp vợ chồng quen trên mạng đã có gặp tại Cali với nhóm cựu học sinh Nguyễn Bá Tòng. Đồng chí gái kêu cặp chồng này hạnh phúc nhất, ngày nào cũng chụp hình tải lên mạng trong khi đồng chí gái phải quát tháo mình mới đứng chụp hình với mụ vợ. 

Sau đó hai vợ chồng bay qua Tân Tây Lan xứ của mật ong Manuka lại khám phá ra có 20 loại mật ong Manuka nên mình nghĩ tốt hơn ăn mật ong của vườn mình cho chắc ăn và Kiwi. Xứ kiwi mà chỉ có hai con kiwi làm giống Chán Mớ Đời. Rồi bay về Úc Đại Lợi viếng vợ chồng bà dì tiệm Hiệp Thạnh, số 11 Duy Tân, Đà Lạt khi xưa. Tại đây có gặp hai chị tiến sĩ du học sinh từ Việt Nam. Hai người dẫn đi chơi vòng vòng Sydney. Cho thấy mạng xã hội giúp làm quen nhiêu người từ ảo thành thật.


Tháng 5 mình và gia đình bay qua Tajikistan, Kazakhstan và Kyrgyzstan có ghé Istanbul. Thành phố thì quá nhiều để nhớ. Có lẻ chuyến đi này đẹp nhất trong năm vì lần đầu tiên leo núi với toàn bộ gia đình và cắm trại trên núi. Cảnh đẹp mê hồn. Ai có khả năng leo núi mình nghĩ nên bò lên đây một lần cảnh đẹp mê hồn hơn cả Kilimanjaro hay Mount Whitney. Chuyên đề này đầy kịch tính. Con gái và thằng bồ bay đến Tajikistan nhưng lỡ có uyển bay từ Istanbul nên buồn đời công ty hàng không Thổ Nhĩ Kỳ kêu bay qua Uzbekistan rồi từ đó lấy xe taxi quạ Tajikistan khi đến nơi ở biên giới thì họ không cho qua hiểm giới bằng đường bộ, bắt phải về lại phi trường lấy máy bay để bay qua. Con gái gọi điện thoại kêu cả ngày chỉ ăn mấy miếng bánh mì, máy ATM lấy mất thẻ của con. Bố cứu con. Mình gọi chủ công ty thì ông ta gọi tài xế nói chuyện trực tiếp, và mua vé máy bay cho con gái và thằng bồ tại Tashkent thủ đô của Uzbekistan. May quá xe chạy 8 tiếng đến kịp chuyến bay qua Taạikistan. Cả nhà trùng phùng kéo nhau lên núi. Mình nghĩ con gái và thằng bồ sống sót qua vụ này thì có thể đi xa hơn vì lâm vào tình huống như vậy mà bình tĩnh không trách cứ nhau, cùng nhau tìm giải pháp để đến đích vì thường một trong hai người chỉ trích đưa đến sugar you you go sugar me me go. 

Sau một tuần leo núi con gái bay về New york trong khi hai vợ chồng và thằng con bay quà Karzachstan chạy xe vòng xứ to lớn này rồi qua biên giới Kyrgyzstan rồi chạy khắp nơi mới bay về Cali sau 4 tuần lễ chạy theo con đường tơ lụa ở Trung Á. 


Tháng 7 mình đi Alaska với vợ, viếng cả chục thành phố. Gặp ông bán khu thương mại cho mình. Ông này không con không cháu nên sống như vua với tiền mình trả hàng tháng. 


Tháng 8, mình ghé thăm anh bạn ở Texas vài ngày vì anh ta khá lớn tuổi, sức khỏe kém nên không đi xa được. Có hẹn đi xe lửa từ Cali lên Seattle nhưng nay thì chịu, sức khỏe không cho phép. Cho thấy về già còn sức khỏe thì đi chơi vì sức khỏe bay đi rất nhanh.


Tháng 9 thì đi Ý Đại Lợi đi bộ 15 ngày hơn 325 km như dự định, ghé tối thiểu 15 thành phố. Chuyến đi này mới khám phá ra mình chưa đã già vẫn còn lết đi được. Sang năm lại tính đi tiếp. Hy vọng đồng chí gái sẽ đồng hành. 


Tháng 10 thì ghé Lyon và Paris thăm cô em và vài người bạn cũ học Yersin Đà Lạt xưa. 


Tháng 12 thì đi Bali, Java, Singapore và Đài Loan với bà cụ và cô em. Chuyến đi quá vui với bà cụ. Bà cụ cứ kêu đẹp quá con hỉ. Khách sạn răng mà to rứa. Nhìn mẹ cừi mình cảm thấy hạnh phúc như khi xưa được mẹ cho tiền. 


Thôi về lại Cali nằm dưỡng sức để tháng 3 năm sau đi Panama rồi tính sau. Xong Om


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 



Hạt giống lãnh đạo tư bản

 Lò sản xuất tổng thống và bộ trưởng pháp

Tuần này thiên hạ bàn tán về ông cán bộ lớn nào kêu phải dùng gen chính gốc của người cộng sản 3 đời chuyên chính vô sản để cấy nòi giống lãnh đạo cho Việt Nam mai sau nên mình kể về vụ các lãnh đạo Tây phương được tuyển lọc ra sao và đào tạo để được đưa lên nắm chính quyền thi hành các chương trình của các tài phiệt khắp năm châu  

Hôm nay tình cờ xem phỏng vấn cháu nội của tổng thống De Gaulle, tên Pierre de Gaulle, con của đô đốc Philippe de Gaulle), được xem là một nhân vật ít lên tiếng, trầm lặng trong giới tài chánh sinh sống tại Thụy Sĩ khiến mình thất kinh nên mò thêm tài liệu để đọc. 



Ông thần cháu nội được xem là bênh vực Puchin trong cuộc chiến tại Ukraine, ông ta chỉ trích NATO và ủng hộ Puchin khiến dòng họ De Gaulle kêu chỉ ông Thần này thôi còn cả dòng họ vẫn cương quyết ủng hộ Ukraina tới binh sĩ cuối cùng. Mình nghĩ ông cháu nội này có tư tưởng như tổng thống De Gaulle, chống Mỹ. Chính ông ta muốn trung lập hóa Đông-Dương. 


Ông thần này lên đài truyền hình kêu là các tổng thống pháp hay các nhà cầm quyền của Âu châu đều xuất thân từ chương trình Young Leaders của French-American Foundation do CIA tài trợ như Sarkozy, Hollande và Macron. Chương trình các lãnh đạo trẻ là ngọn đuốc của cơ quan French -American Foundation, một tổ chức vô vụ lợi được thành lập năm 1976 với mục đích nối kết liên hệ của Pháp quốc và Hoa Kỳ. Năm 1981, họ chọn đâu 20 người vừa pháp và Mỹ có khả năng lãnh đạo, tuổi độ 30-40 tuổi để giúp tiến cử vào các môi trường chính trị và truyền thông. Họ tổ chức các buổi hội thảo hai bên nhằm thắt chặt tình hữu nghị xuyên Bắc Đại Tây dương. Các nhân vật tham dự đặc biệt như: 

•  François Hollande (1996)

•  Emmanuel Macron (2012)

•  Alain Juppé (1981)

•  Édouard Philippe (2012)

•  và (Arnaud Montebourg, Najat Vallaud-Belkacem, etc.)

Nicolas Sarkozy không tham dự trực tiếp nhưng các công sự viên như Pierre Mariani tham dự vào 1996).


Chương trình này thường bị chỉ trích như một công cụ gây ảnh hưởng của Hoa Kỳ đúng hơn là CIA. Mình chưa tìm ra bằng chứng do CIA trực tiếp nắm chương trình này. 

French-American Foundation được tài trợ bởi các nhà hảo tâm, công ty tư nhân. 


Mình nghĩ mỗi nước tại Âu châu đều có một hiệp hội tương đương, mình chỉ tìm ở pháp vì có theo dõi tình hình ở pháp còn mấy nước khác thì ít để ý. 


Theo trang nhà của hội thì mỗi năm họ phải tham dự 2 buổi hội thảo bắt buộc. 1 tại Âu châu và một tại Hoa Kỳ, thường vào tháng 10 mỗi năm. Tất cả đều được đài thọ. Và sau này sẽ được ủng hộ lên làm lãnh đạo tại Hoa Kỳ cũng như tại Pháp sau khi được huấn luyện rất kỹ. Mà muốn tham gia thì phải trải qua nhiều kỳ phỏng vấn chớ không phải nông dân như mình muốn xin là được. 


Tương tư mình nghe có người kể là Hoa Kỳ có tổ chức khóa hội thảo tại DC và mời một số luật sư trẻ và trí thức Việt Nam, một số du học sinh. Được đào tạo về tranh đấu dân chủ này nọ. Sau khi trở về Việt Nam thì họ có lên tiếng này nọ rồi bị bắt nay đa số đều được thả và ở hải ngoại. Lâu lâu có thấy tên họ trên mạng xã hội nhưng đã ra khỏi Việt Nam thì không còn hữu hiệu nữa. Hà Nội cho người đánh banh ta lông luôn. Hình như còn 2 người trong tù. 


https://frenchamerican.org/young-leaders/


Tiền bạc mà USAID đài thọ các tổ chức vô chính phủ trên thế giới mà nay chính phủ Trump thay đổi không muốn dính dáng gì đến nữa nên cắt hết các tài trợ để quay về với chủ nghĩa của tổng thống Monroe để cải thiện lại kinh tế Hoa Kỳ trong cuộc tranh đua cách mạng trí tuệ nhân tạo với Trung Cộng. Có thể vì vậy mình thấy giới truyền thông việt ngữ có nhiều tờ báo đánh chính phủ Trùmp không thương tiếc. Chắc họ lãnh tiên từ các tổ chức này. 


Phía Hoa Kỳ thì có những nhân vật sau đây:

 U.S.: Bill Clinton, Hillary Clinton, Antony Blinken (former Secretary of State), Eric Garcetti (Ambassador to India), Gwen Ifill (journalist), Isabel Wilkerson (Pulitzer winner).

•  France: Emmanuel Macron (President), Édouard Philippe (former Prime Minister), Thomas Pesquet (astronaut), Cédric Villani (mathematician/politician).

Xem ra các lãnh đạo Tây phương đều được sản xuất từ một lò nên chúng ta thấy địa chính trị đều như nhau. Mình nghe nói đến Deep State nhưng không rõ lắng nhưng qua vụ này thì mình bắt đầu hiểu các người bỏ tiền ra để huấn luyện và giúp cho các thành viên của foundation để đạt đến đỉnh cao của quyền lực tại Hoa Kỳ cũng như Pháp quốc không phải vì họ yêu nước mà cần các tay sai thực hiện những quyết định của họ muốn để nắm quyền lực và tiền bạc. 


Vụ hồ sơ Epstein gây sóng gió từ khi ông Trump, mình đoán các tài phiệt có dính liêu vào mà những người này đều cúng tiền tranh cử cho hai bên nên chỉ cho chút chút ra để dân bớt lộn xộn. Có thể họ dùng hình ảnh tài liệu để làm áp lực chinh trị vì thấy nhiều đại biểu thôi không tái ứng cử nữa. Dư luận bị dẫn dắt từ thời xưa đến nay chỉ có là tình vi  hơn ngày nay. Được cái là họ tung fake news cho chúng ta chửi nhau cho vui. Để hôm nào mình kể cách làm lũng đoạn một quốc gia do một cựu đại tá an ninh nga sô kể chương trình của liên sô để làm sụp đỗ đế chế Hoa Kỳ cũng như cuốn sách người Tàu, cố vấn của Tập Cật Bình, nói về Hoa Kỳ. 


Bác nào có tài liệu về các tổ chức này thì cho em xin. Em nghĩ phía Trung Cộng hay nga sô cũng xen vào các nước khác nhằm bố trí các lãnh đạo trẻ trong các nước lân cận để hổ trợ cho cuộc xây dựng một đế chế mới ở Á châu. 


Lâu lắm rồi mình có đọc một bài về 100 hạt giống đỏ đầu tiên được Hà Nội cho qua liên xô đào tạo. Mình có dịp gặp vài người này như chị Hằng Nga, kiến trúc sư ở Đà Lạt và vài người khác. Nhớ chị Nga mời lại nhà chơi, nhìn lên bàn thờ thấy hình ông Hồ và Trường Chinh khiến mình thất kinh . Bài báo cho biết các hạt giống đỏ này cũng không đem lại hay giúp gì cho đất nước. Bài báo do một người trong nước hình như cũng là hạt giống đỏ viết. Thấy Tấm ảnh chụp cả nhóm 100 hạt giống đỏ, con của các cán bộ cấp cao của Hà Nội. Hình như có ông Nông Đức Mạnh. Bác nào có thông tin gì thêm thì cho em xin. Cảm ơn trước. 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Trà Hoa Nữ là ai “La dame aux Camélias’

Trà hoa nữ

Nhớ hồi nhỏ hóng chuyện người lớn, nghe họ nói về Trà Hoa Nữ chi đó, một cô gái đẹp được nhà văn Alexandre Dumas con hay cha không nhớ, viết về cuộc đời của cô này chết trẻ vì bệnh chi đó. Họ kêu là gần chết cô ta kêu mua hoa chất đầy phòng rồi đóng cửa lại và chết như bà đầm trong hương thơm của hoa. Lớn lớn một chút thì được biết là cuốn tiểu thuyết “La dame aux Camélias “ nên khi sang Paris buồn đời mình đi viếng mộ cô nàng ở nghĩa trang Montmartre. 

Trà hoa nữ không biết là ảnh chụp thời đó hay ây Ai làm

Cuộc đời cô này được các nhạc sĩ dựa theo sáng tác nhiều màn kịch opera nổi tiếng. Nếu để ý chúng ta thấy các màn kịch opera của Tây phương nổi tiếng đều nói về cuộc đời các bà đầm gian truân như Thúy Kiều của ông Nguyễn Du. Đi chơi với đồng chí gái, ngồi phi trường buồn đời Cô Lựu nên tóm tắt cuộc đời Trà Hoa Nữ cho mấy chị tưởng tượng mình là Trà Hoa NỮ đã đì chồng ra sao đến chết yểu. 


Trà Hoa Nữ xuất thân tại vùng Normandie, phía Bắc Paris, đoán là tóc vàng nên mấy ông tây mê giống Viking. Mẹ cô ta chết sau khi bỏ nhà ra đi lên Paris làm ô sin khi cô ta lên 6 tuổi vì không chịu đựng được người chồng nghiện rượu và vũ phu. Cần tiền cha cô cho cô đi làm ohsin năm 12 tuổi cho một gia đình điền chủ. Cho thấy cách mạng 1789 nhưng phụ nữ vẫn chưa được bình đẳng, luật pháp che chở. 


Cô sinh ra với tên Alphonsine Rose Plessis vào ngày 15 tháng 1 năm 1824, tại một ngôi làng nhỏ ở Normandie, Pháp. Năm 12 tuổi, đi làm ô-sin, cô bị một tá điền cưỡng hiếp. Gia đình địa chủ cường hào ác bá mà cô đang làm ô sin cùng đổ lỗi cho cô vì tắm ở truồng ngoài trời khiến tá điền nổi máu dê và gửi cô trở về với cha. Mình đoán là giữ tên tá điền lợi hơn cô bé 12 tuổi giúp việc nhẹ nhàng trong nông trại. 


Năm 13 tuổi, cha cô bán cô cho một người đàn ông lớn tuổi tên Plantier, sống ở một nơi hẻo lánh khỉ ho cò gáy đúng hơn là chó ho bò rống. Buồn đời vì xung quanh chỉ nghe tiếng bò rống nên cô ta cũng bỏ trốn như mẹ mình khi xưa. Cô chạy đến các ngôi làng gần đó, tìm việc ở tiệm giặt ủi hay cửa hàng để sống sót. Nhưng cha cô cứ tìm ra cô, cứ kéo cô về, bán sức lao động của cô cho bất kỳ ai chịu trả tiền mua rượu theo phương châm hy sinh đời con củng cố đời bố. Năm 15 tuổi, cô khôn hơn trốn đến được Paris. Thế là ông bố hết tìm ra vì quá rộng lớn. 


 Lúc ấy cô còn trẻ, không có thân nhân ở Paris, đói khát, mặc quần áo rách rưới, ngủ bất cứ nơi nào tìm được chỗ kiểu văn hào Victor Hugo kể trong cuốn Những Kẻ Khốn Cùng. Một đạo diễn nhà hát sau này nhớ lại đã thấy cô trên cầu mới Pont-Neuf, đang nhìn chăm chú vào một quầy khoai tây chiên với vẻ thèm thuồng. Ông mua cho cô một gói khoai tây chiên vì thương hại. Chưa đầy một năm sau, ông thấy chính cô gái đói khát ấy đang khoác tay một đại gia quý tộc tại vườn Ranelagh như cô bé lọ lem được lột xác. 


Alphonsine đã biến mình thành Marie Duplessis. Cô chọn tên “Marie” theo Đức Trinh Nữ Maria dành cho một cô gái đã bị cướp mất sự ngây thơ trước khi hiểu ngây thơ là gì. Cô thêm “Du” vào họ để nghe quý tộc hơn. Mình đoán Tú Bà ở Paris trùng tu, nâng cấp lại chớ một cô gái quê mùa biết gì. Thật ra tên Alphonsine do bố đặt ra rất quê mùa nên ra thủ đô phải đổi tên cho có vẻ sang trọng. Như mình khi sang Paris tây đầm gọi Son (âm thanh) thay vì Sơn vì họ không đọc Sơn được. 

Cô tự học đọc, học nói tiếng Pháp mà không còn giọng Normandy, mình đoán cô ta chỉ nói phương ngữ của vùng Normandie, vì khi xưa các vùng Pháp quốc đều nói “patois” phương ngữ. Dạo mình ở pháp có quen mấy tên gốc vùng Bretagne, chúng gặp nhau xổ toàn phương ngữ breton cũng như khi mình lên Alsace cũng như ngỗng ị khi nghe dân vùng này xổ phương ngữ của họ. Mình đoán nay họ đều nói tiếng pháp


Cô ta học tiếng pháp để mỗi sáng nghiên cứu báo chí để có thể thảo luận sự kiện thời sự với những người đàn ông giàu có mà khi xưa học Les femmes savantes “ của Moliere . Tương tự ngày nay sáng nào chúng ta đọc Fake news rồi lên mạng chửi bới thiên hạ cho vơi đi nổi sầu, hận đàn bà. Cô ta giác ngộ cách mạng một điều: nếu thế giới cho rằng cô chẳng có giá trị nào ngoài nhan sắc, thì cô sẽ biến nhan sắc ấy đắt giá hơn bất kỳ ai có thể trả sẽ bắt họ phải trả nên ngày nay có nhiều trà hoa nữ hay trà hoa nam trên mạng cứ câu like nhắn tin để dụ đàn ông và phụ nữ cần bị dụ. Chán Mớ Đời. Đến năm 16 tuổi, cô đã học được điều mà những cô gái xinh đẹp khác ở vị trí cô đều học tập đạo đức cách mạng: những đại gia sẽ cho cô tiền, căn hộ, trang sức, xe ngựa bất cứ thứ gì để đổi lấy sự đồng hành trên giường của cô. Lên giường cô ta sẽ đả thông tư tưởng với các đại gia về cái áo muốn mua hay cái ví muốn đeo trước khi cho Đại giá rờ mờ đến thân thể. Cô bỏ việc ở các tiệm may với đồng lương ít ỏi và trở thành một kỹ nữ cao cấp. 


Nhưng trà hoa nữ không giống những kỹ nữ khác. Cô thanh lịch, duyên dáng, Cô tổ chức salon văn học tại căn hộ của mình, như ngày nay họ tổ chức karaoke tại gia, nơi các chính trị gia, nhà văn và nghệ sĩ tụ họp không chỉ để lên giường với cô, mà để trò chuyện với cô. Ai trả cát-xê cao thì được mời thăm quan cái duyên dáng mặn mà của cô. 


Văn hào Honoré de Balzac từng tham dự. Cô có ghế riêng cho đêm khai mạc tại mọi nhà hát lớn. Cô sưu tầm nghệ thuật. Cô sở hữu 200 cuốn sách, thời đó sách rất đắt tiền. Cô đeo hoa trà màu trắng khi cô rảnh rỗi, màu đỏ khi không, trở thành dấu ấn của cô. Tương tự khi mấy bà có kinh thì cắm cờ đỏ còn không thì cắm đờ trắng để chồng con biết mà liệu đối xử. 

Nhạc sĩ Frank Lízt người tình của cô khi làm việc tại Paris. Không nên tin các tên nghệ sĩ vì chúng chỉ hứa cuội để được hò giã gạo. 


 Loài hoa ấy không có mùi hương, cho một người phụ nữ mà cuộc đời chỉ là để được nhìn thấy, chứ không phải được biết đến. Franz Liszt, siêu sao âm nhạc quốc tế đầu tiên, người gây ra “cơn sốt Liszt” khắp châu Âu đã yêu cô. Ông muốn đưa cô đến Constantinople, Istanbul ngày nay và hứa sẽ quay lại đón cô nhưng Ông hát bài Nghìn Trùng xa cách và nhắn tin cho cô nghe vì có các trà hoa nữ khác ở Istanbul vì nghe bài hát của ông Nguyễn Ánh Chín “Không tôi không còn yêu em nữa”. 


Alexandre Dumas con, con trai của nhà tiểu thuyết nổi tiếng 3 chàng ngự lâm pháo thủ, cũng yêu cô. Họ có mối tình 11 tháng bắt đầu từ tháng 9 năm 1844. Anh ta trẻ tuổi, nghèo khó, và ghen tuông điên cuồng với những người đàn ông thực sự có khả năng bao nuôi cô. Đến tháng 8 năm 1845, cô kết hôn với Bá tước Édouard de Perregaux ở Anh, một cuộc hôn nhân tiện lợi không được công nhận hợp pháp ở Pháp, điều hoàn toàn phù hợp với cô. Ông kia về Anh quốc làm ăn rồi lâu lâu qua Paris thăm người vợ bé bỏng chiều sim. Kiểu Việt kiều về Việt Nam có trà hoa nữ mazde in Việt Nam rồi em kêu em cấn thai với Việt kiều.  


Cô muốn tiền bạc và danh hiệu của ông mà không phải từ bỏ tự do của mình. Marie Duplessis: cô tiêu xài hoang phí, đánh bạc. Cô mặc những bộ đồ đắt tiền nhất, cưỡi ngựa nhập từ Anh, sống trong những căn hộ xa hoa đầy đồ nội thất kiểu Louis XV và rèm lụa. Nhưng cô cũng cho đi. Cô giúp đỡ những gái mại dâm khác để chuẩn bị ngày nào lên chức Madame Claude. Cô quyên góp cho từ thiện. Khi cô qua đời, những người phụ nữ cô đã giúp xuất hiện tại tang lễ, khóc nức nở, khóc như chưa bao giờ khóc thật tình,  không phải vì cô tử tế theo kiểu trừu tượng, ban ơn mà vì cô hiểu nổi buồn gác trọ. 


Marie sống như thể biết thời gian của mình không còn nhiều. Có lẽ cô biết Bệnh lao, căn bệnh “lãng mạn” của thời đại, căn bệnh khiến ho ra máu và tiều tụy một cách đẹp đẽ liêu trai khiến đàn ông hay nông dân như mình phải mê,  tuberculose đã đang từ từ giết chết cô. Năm 1847, cô dành nhiều thời gian hơn ở các suối nước nóng chữa bệnh thay vì ở Paris, tuyệt vọng cố mua thêm thời gian cho mình. Mấy bà đọc tới đây chắc chắn sẽ kêu đáng kiếp, biết đâu ông chồng đem vi khuẩn về nhà lại lây mấy bác gái.  


Ngày 3 tháng 2 năm 1847, Marie Duplessis qua đời về thiên quốc trong căn hộ của mình trên Đại lộ Madeleine. Ai đến Paris, viếng nhà hát opera thì sẽ thấy đại lộ này. Sang lắm. Cô mới 23 tuổi. Xem như thua Thúy Kiều vì chỉ thực hiện được cuộc đời dụ đàn ông có 7 năm trong khi Thúy Kiều sau khi trả hết nợ cho Tú Bà khi mượn tiền trả 2 phân tiền lời là 24%/ năm rồi mới nhảy xuống xuống sông Hậu Giang nhưng may thay cán bộ giao liên đi ngang qua thấy Thúy Kiều đang chết chìm, nhảy xuống cứu và đi theo cách mạng vào Sàigòn chiêu thêm mấy đại gia Sài thành trước 75.


  Các tay giang hồ xã hội đen đã lục soát căn hộ xa hoa của cô để thu nợ ngay khi cô trút hơi thở cuối cùng. Tang lễ của cô tại nhà thờ Madeleine thu hút đám đông. Charles Dickens tham dự và sau này viết rằng Paris thương tiếc “như thể Marie là Jeanne d’Arc hay một nữ anh hùng dân tộc nào đó, nỗi buồn chung sâu sắc đến vậy.” Chỉ vài tuần sau, toàn bộ tài sản của cô bị bán đấu giá, đồ nội thất, trang sức, sách vở, thậm chí cả con vẹt cưng. Giới thượng lưu Paris kéo đến, không phải để đấu giá, mà để nhìn ngắm. 


Alexandre Dumas con, bị dằn vặt bởi tội lỗi vì đã tránh mặt cô trong những tuần cuối đời, tự nhốt mình và viết một tiểu thuyết trong bảy ngày. Ông đặt tên nó là La Dame aux Camélias—“Người Đàn Bà của Những Hoa Trà.”  Việt Nam mình dịch là Trà Hoa Nữ thì phải.  Ông đổi tên cô thành Marguerite Gautier và viết lại câu chuyện của họ theo cách ông mong muốn: bi kịch, lãng mạn, cứu rỗi của tình anh bán tiểu thuyết. 


Trong phiên bản của ông, cô từ bỏ tất cả vì tình yêu. Cô chết một cách cao thượng, đẹp đẽ, được cứu rỗi bởi đau khổ. Cuốn sách trở thành bestseller. Rồi thành vở kịch. Sau đó năm 1853, Giuseppe Verdi xem vở kịch và xúc động đến mức sáng tác một trong những vở opera nổi tiếng nhất lịch sử: La Traviata (Người Phụ Nữ Sa Ngã) mình có xem ở Luân Đôn. Tiểu thuyết chưa bao giờ hết in. Vở opera vẫn được biểu diễn khắp thế giới. Có ba vở ballet, hơn chục bộ phim (nổi tiếng nhất là Camille với Greta Garbo), và vô số bản chuyển thể. Họ tôn vinh các cô gái dụ khụ đàn ông, phá gia cang nên các cô gái trẻ thả hồ instagram nhắn tin dụ đàn ông. 


Marie Duplessis trở thành bất tử nhưng dưới hình dạng sáng tạo của người khác. Đây là điều Dumas không bao giờ viết: Marie không chết vì tan vỡ và bị bỏ rơi. Bá tước Perregaux đã vội vã đến bên giường bệnh của cô trong những ngày cuối. Ông trả tiền cho tang lễ. Ông đi theo quan tài cô đến Nghĩa trang Montmartre, công khai khóc thương. Đây là điều ông không bao giờ viết: Marie từng tâm sự với một người bạn, “Tôi đã yêu chân thành, nhưng không ai từng đáp lại tình yêu của tôi. Đó mới là nỗi kinh hoàng thực sự của cuộc đời tôi.” Vụ này thì mình nhất trí vì khi xưa cũng rất chân thành với mấy cô quen rồi khi họ khám phá ra mình là nông dân thì đá cái vèo bay lên ngọn cây bơ. Chán Mớ Đời 


 ông Dumas con không bao giờ viết: Marie không nhu mì. Cô không thụ động. Cô không dành cả đời chờ đợi được cứu bởi tình yêu của một người đàn ông. Như mình đã kể xã hội xưa thuộc phụ hệ nên đàn ông họ vẽ vời tư thế địa vị phụ nữ, chờ đợi tình yêu vớ vẫn. Khi xưa mình cũng tin lời mấy cô sái cỗ đến khi họ phát hiện ra đồng chí giai khác là đá mình liền. 


Cô sống sót bằng cách từ chối bị sở hữu bởi đàn ông. Cô lấy một thế giới đã ban cho cô nghèo đói, bạo lực, cưỡng hiếp và bị bỏ rơi và biến nó thành một triều đại ngắn ngủi nhưng phi thường lên chính những người đàn ông tự xưng là kiểm soát cô. Cô khiến họ cạnh tranh vì cô. Cô khiến họ trả giá rất đắt. Cô khiến họ nhớ mãi về cô. Và khi bệnh lao cuối cùng cướp đi cô, Paris khóc không phải cho vị thánh hư cấu mà Dumas sẽ tạo ra, mà cho người phụ nữ thực sự đã từ chối xin lỗi vì đã sống sót theo cách duy nhất cô có thể. Cô được chôn cất dưới tên thật: Alphonsine Plessis. Mộ cô vẫn ở nghĩa trang Montmartre, thường được phủ đầy hoa trà do những người lạ để lại những người chỉ biết cô qua tiểu thuyết. 

Ai thích đi chài mấy ông thì nên ghé lại Paris cúng cô này như ở Việt Nam họ bay ra Côn đảo để cúng cô Sáu. Đắt địa được cô Sáu marie phù hộ, không chài nhiều tiên không lấy hoa. 


Nhưng Marie thực sự người đã bò ra khỏi nghèo đói và lạm dụng, người đã xây dựng một salon nơi trí thức tụ họp, người đã giúp đỡ phụ nữ khác ngay cả khi chính mình đang đấu tranh sinh tồn, người đã yêu mà không được đáp lại cũng xứng đáng được nhớ đến. Không phải như một nạn nhân bi kịch cần được cứu rỗi. Mà là con người thật của cô: một người phụ nữ từ chối bị thế giới quyết tâm hủy diệt bẻ gãy. Nhất là cô cố gắng bẻ gãy tàn phá gia cang thiên hạ để được có tiền mua ví xịn Hermès hay áo lông cừu, qua các chương trình đầu tư Bitcoin giả. 


Thời nay chúng ta có rất nhiều trà hoa nữ trên mạng và xuất hiện rất nhiều trà hoa nam để đi lừa tình lừa tiền để ăn chơi. Chán Mớ Đời lý do họ đọc Trà Hoa Nữ của Alexandre Dumas con, một tên nghèo mê cô ta nhưng không được đáp lại vì cái tội Chí Phèo nên sau khi cô ta chết anh ta bựa ra chuyện tình lâm ly bị đát hốt được mớ tiền thoải mái. Mình đọc cuốn này mướn ở tiệm sách Minh Thu đường Phan Đình Phùng Đà Lạt xưa nên khi qua tây cứ tưởng thật về mối tình hữu nghị sông liền sông núi liền núi của ông Thần Alexandre Dumas con (có tên bạn học gốc Huế kêu là A lệc xăn đu ma) nên khi qua Paris buồn đời mình nhớ đến cuốn sách nên bò đến viếng mộ nàng kỹ nữ. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Rubik hiện tượng một thời

 Cubic hiện tượng một thời 

 

Hôm nay tình cờ đọc về lịch sử của trò chơi xếp hình Rubik mà một thời cả thế giới nổi điên, ai nấy đều bám lấy nó như cái điện thoại di động ngày nay. Con mình xưa cứ đưa Rubik là không quậy phá. Lâu lâu bổng nhiên gặp được một tài liệu kể về lịch sử của sự việc gì đó mà mình có trải nghiệm trước đây giúp mình hiểu thêm về cuộc đời đã đi qua có nhiều điều hay và bất ngờ. 

Điểm vui là sự hình thành của Rubik xuất hiện từ Hung Gia Lợi thời Liên Sô và nếu không có chủ nghĩa tư bản giãy chết nhúng tay vào thì có lẻ thế giới chả biết Rubik là gì. Mình xin tóm tắt như sau. 


Dưới thời Liên Sô, có một kiến trúc sư kiêm giáo sư người Hung gia lợi tên Ernő Rubik, buồn đời tạo ra một nguyên mẫu bằng gỗ nhỏ trong căn hộ ở Budapest vào mùa xuân năm 1974, ông hoàn toàn không có ý định thiết kế 1 thứ sau này trở thành trò chơi xếp hình bán chạy nhất thế giới. Mục tiêu của ông rất thực tế và khiêm tốn: ông muốn có một công cụ giảng dạy trực quan, giúp sinh viên kiến trúc hiểu được các mối quan hệ trong không gian ba chiều. Vụ này thì mình có trải qua vì phải học hình học lắm chiều với ánh sáng hai năm đầu đại học. Học cho cố rồi làm nông dân. 


Giáo sư Rubik giảng dạy tại Học viện Mỹ thuật Ứng dụng và Thủ công ở Budapest. Ông cố gắng giúp sinh viên hiểu cách các vật thể có thể chuyển động độc lập nhưng vẫn gắn kết với nhau thành một cấu trúc thống nhất. Đây là kiểu tư duy không gian ba chiều cực kỳ quan trọng đối với kiến trúc sư, nhưng rất khó hình dung giải thích qua các sơ đồ phẳng.


Thách thức của ông Rubrik mang tính cơ học: làm sao tạo ra một khối lập phương mà mỗi mặt có thể xoay tự do, trong khi toàn bộ cấu trúc vẫn giữ nguyên? Ông thử nghiệm với dây cao su, khoét rãnh, thử nhiều cơ chế bên trong khác nhau. Sau vô số lần thất bại, cuối cùng ông cũng tạo ra được một khối lập phương mà mỗi trong sáu mặt, mỗi mặt gồm chín ô vuông nhỏ, có thể xoay độc lập, trong khi toàn bộ khối vẫn liền lạc.


Nó hoạt động hoàn hảo như xe tây. Các khối xoay trơn tru. Cấu trúc vững chắc. Dưới góc độ giảng dạy, đó chính xác là điều ông mong muốn. Người ta chê xe Nga nhưng trên thực tế nó rất bền cho xứ lạnh như liên xô. Mùa đông nổ máy chạy liền không có nằm ụ.



Sau đó buồn đời ông Rubik thêm một yếu tố nữa: ông tô mỗi mặt một màu khác nhau. Sáu màu, sáu mặt. Trắng, đỏ, xanh dương, cam, xanh lá, vàng. Khi được sắp xếp đúng, mỗi mặt của khối lập phương sẽ chỉ có một màu đồng nhất. Ở trạng thái hoàn chỉnh, nó trông thật đẹp, một khối lập phương đa sắc hoàn hảo.


Rồi ông Rubik buồn đời khi bị vợ la, ông trộn nó lên khiến ông càng rối đầu lên bỏ bê đồng chí vợ thức khuya để làm sao cho các mặt cùng màu. Mấy bà vợ bạn mình đều rên là ông chồng cứ xoay xoay lên giường với vợ cũng xoay xoay thân thể họ. Chán Mớ Đời 


Ông xoay ngẫu nhiên vài lần, khiến các màu bị trộn lẫn trên cả sáu mặt. Những mảng màu đồng nhất trở thành một mớ hỗn độn, ô trắng cạnh ô đỏ, xanh lá lẫn với cam, không còn trật tự nào có thể nhận ra.


Giờ thì giác ngộ cách mạng ông thần Rubik nghĩ, hãy xoay nó trở lại trạng thái ban đầu. Nhưng ông không làm được. Các màu không chịu khớp lại. Mỗi nước đi sửa được một phần thì lại làm rối phần khác. Điều tưởng chừng đơn giản, chỉ cần đảo ngược các bước vừa làm, hóa ra phức tạp hơn rất nhiều so với những gì ông hình dung. Mình có chơi vụ này khi đến nhà bạn nhưng chưa bao giờ giải được vụ này. 


Ông thần Rubik nhìn chằm chằm vào khối lập phương bị xáo trộn với nỗi lo ngày càng tăng. Ông là người phát minh ra nó. Ông hiểu rõ cơ chế hoạt động. Ông nắm vững cấu trúc của nó. Thế nhưng ông vẫn không thể khôi phục lại trật tự màu sắc ban đầu. Giống như con mình lớn lên không kiểm soát được chúng. Chúng không nghe lời. 

Khoảnh khắc ấy khi chính người phát minh không thể giải được phát minh của mình đánh dấu thời điểm khối Rubik chuyển từ công cụ giảng dạy thành một câu đố thực thụ.


Trong suốt một tháng tiếp theo, Rubik nghiên cứu phát minh của mình một cách ám ảnh. Càng cố gắng thì vợ ông ta càng xì nẹt. Mỗi khi rảnh rỗi, ông lại xoay đi xoay lại khối gỗ đó, cố gắng hiểu logic di chuyển của các ô màu. Không có sách hướng dẫn hay lời giải. Không có YouTube hay diễn đàn trực tuyến. Ông là con người đầu tiên trên Trái Đất đối mặt với bài toán cụ thể này, một mình trong căn hộ ở Budapest với mụ vợ. 


Dần dần, ông bắt đầu nhận ra các quy luật. Một số chuỗi xoay vòng nhất định sẽ làm các khối di chuyển theo cách có thể dự đoán được. Ví dụ, nếu xoay mặt trên theo chiều kim đồng hồ, rồi xoay mặt phải lên trên, rồi xoay mặt trên ngược chiều kim đồng hồ, các khối sẽ dịch chuyển theo một mô hình cụ thể. Ghép đủ các mô hình này lại, có thể đưa các mảnh về vị trí mong muốn. Mình thì ngu dốt thêm không có sự kiên nhẫn để bóp quay này nọ nên độ 4 phút là trả hết về người. 


Nhưng toán học phía sau thật choáng ngợp. Khi ông Rubik tính toán các tổ hợp, ông nhận ra khối lập phương có hơn 43 nghìn tỷ tỷ cách sắp xếp khác nhau, chính xác là 43.252.003.274.489.856.000 cấu hình. Hèn gì mình không làm được. Chỉ có gen hạt giống đỏ xả lũ theo quy trình mới làm được. 


Để dễ hình dung: nếu trộn một khối Rubik và thử một cách sắp xếp mới mỗi giây, sẽ mất 1,4 nghìn tỷ năm để thử hết mọi khả năng, khoảng gấp 100 lần tuổi hiện tại của vũ trụ. Chán Mớ Đời 


Con số này vượt xa mọi dự đoán ban đầu của Rubik. Ông đã tạo ra một câu đố có độ phức tạp vượt quá cả sự hiểu biết của chính mình. Không đúng quy trình của nhà nước. 


Nhưng Rubik rất kiên nhẫn như xếp hàng mua bánh mì. Có phương pháp. Ông tiếp cận vấn đề như một kiến trúc sư, xây dựng hệ thống, kiểm nghiệm giả thuyết, ghi chép những gì hiệu quả và không hiệu quả. Từng chút một, qua nhiều tuần thử sai, ông bắt đầu phá được mật mã.


Ông phát triển các thuật toán, những chuỗi thao tác có thể di chuyển một số mảnh nhất định mà không làm xáo trộn các mảnh khác. Trước tiên, ông học cách giải một mặt. Sau đó là tầng giữa. Cuối cùng là mặt còn lại. Mỗi bước đều cần một chiến lược riêng, một chuỗi xoay được sắp xếp cẩn thận.


Khoảng một tháng sau lần đầu trộn khối lập phương, Ernő Rubik cuối cùng cũng giải được nó. Cả sáu mặt trở lại màu đồng nhất: trắng, đỏ, xanh dương, cam, xanh lá, vàng, mỗi mặt lại hoàn hảo như ban đầu.


Cảm giác nhẹ nhõm lúc đó giúp ông nhận ra một điều quan trọng: ông đã tạo ra thứ gì đó vượt xa một công cụ giảng dạy đơn giản. Đây là một câu đố thực sự, đủ sức làm người ta bực bội và say mê cùng lúc khiến mụ vợ Chán Mớ Đời 


Tuy nhiên, Rubik chỉ là một giáo sư ở Hungary cộng sản năm 1974. Ông không có mối liên hệ nào với ngành công nghiệp đồ chơi quốc tế. Không có cách nào sản xuất hàng loạt nguyên mẫu bằng gỗ của mình. Trong một thời gian, khối lập phương chỉ là một sự tò mò, một phát minh thông minh nhưng chưa thấy tương lai thương mại.


Cuối cùng, Rubik hợp tác với một công ty nhỏ của Hungary để sản xuất phiên bản nhựa. Họ gọi nó là “Magic Cube” và bắt đầu bán tại Hungary vào năm 1977. Doanh số chỉ ở mức khiêm tốn. Người sống trong chế độ cộng sản không có thời gian ăn chơi, lo xếp hàng mệt thở. 


Đến năm 1979, một doanh nhân Hungary tên Tibor Laczi nhìn thấy câu đố này và nhận ra tiềm năng toàn cầu của nó. Ông mang nó đến Hội chợ Đồ chơi Nuremberg ở Đức. Công ty Ideal Toy của Mỹ đã ký hợp đồng bản quyền, đổi tên thành “Rubik’s Cube” theo tên người phát minh và tung ra thị trường quốc tế vào năm 1980.


Những gì xảy ra sau đó là chưa từng có tiền lệ. Rubik’s Cube trở thành một hiện tượng toàn cầu. Chỉ trong vòng hai năm, hàng triệu khối lập phương được bán ra trên khắp thế giới. Mọi người ở khắp nơi đều trải nghiệm điều mà Rubik từng trải qua năm 1974, sự bực bội khi trộn một thứ tưởng đơn giản nhưng lại khó giải đến điên đầu.


Các câu lạc bộ giải đố ra đời. Sách hướng dẫn được xuất bản (ban đầu khiến Rubik không vui, ông tin rằng việc tự khám phá lời giải là vẻ đẹp của trò chơi). Các cuộc thi xuất hiện. Những người nhanh nhất có thể giải dưới 30 giây. Rồi dưới 10 giây. Cuối cùng, kỷ lục thế giới giảm xuống dưới 5 giây khi speedcubing trở thành một môn thi đấu thực thụ.


Khối Rubik vượt xa vai trò một món đồ chơi. Nó trở thành biểu tượng văn hóa của thập niên 1980, đại diện cho logic, sự kiên nhẫn, bền bỉ và niềm vui khi giải quyết những vấn đề phức tạp. Nó xuất hiện trong phim ảnh, chương trình truyền hình, tác phẩm nghệ thuật. Các nhà toán học nghiên cứu lý thuyết nhóm của nó. Các nhà khoa học máy tính dùng nó để giảng dạy thuật toán.


Ernő Rubik, kiến trúc sư Hungary trầm lặng chỉ muốn giúp sinh viên hiểu không gian, đã trở thành một nhân vật bất ngờ trong lịch sử trò chơi, câu đố và thiết kế. Khối Rubik đã bán được hơn 350 triệu bản, trở thành trò chơi xếp hình bán chạy nhất mọi thời đại. Hàng loạt biến thể ra đời 2x2, 4x4, 5x5, kim tự tháp, khối mười hai mặt, đủ mọi hình học có thể tưởng tượng.


Nhưng khối Rubik 3x3x3 nguyên bản vẫn là chuẩn mực. Là khởi đầu của tất cả. Là thứ Rubik vô tình tạo ra khi dạy kiến trúc. Là thứ ông mất tròn một tháng mới giải được. Ngày nay, Ông vẫn gắn bó với khối lập phương mang tên mình, vẫn quảng bá “the Cube” trong các cuộc phỏng vấn và phim tài liệu. Ông nói về nó như biểu tượng của trí tò mò, khả năng giải quyết vấn đề và niềm vui khi khám phá quy luật.


Nhưng có lẽ phần đáng kinh ngạc nhất của câu chuyện Rubik’s Cube không phải là thành công thương mại hay ảnh hưởng văn hóa. Mà là khoảnh khắc năm 1974 khi người phát minh trộn khối gỗ của mình và hoảng hốt nhận ra rằng ông đã tạo ra thứ vượt ngoài tầm kiểm soát. Trong suốt một tháng, Ernő Rubik là người duy nhất trên Trái Đất biết đến sự tồn tại của câu đố này. Và trong cả tháng đó, ông bị mắc kẹt với chính phát minh của mình, không thể giải thứ mà ông đã tạo ra.


Cuộc vật lộn ấy, một tháng của thất vọng, thử nghiệm, thất bại và cuối cùng là đột phá chính là câu chuyện khởi nguồn của một trong những câu đố nổi tiếng nhất thế giới. Hầu hết các nhà phát minh đều biết rõ mình đang tạo ra điều gì. 


Rubik thì tạo ra thứ khiến ngay cả chính ông cũng phải ngạc nhiên. Ông thiết kế một công cụ giảng dạy và vô tình tạo ra một câu đố phức tạp đến mức phải mất một tháng mới giải được.


Mình đoán chỉ có tư bản mới làm giàu cho nhân loại. Không có ông thần đem rubik cube qua Tây Âu châu thì bọn tư bản giãy chết mới làm sống lại một loại đồ chơi trí não mà ít ai ở HungGia Lợi muốn hay có tiền mua cho con chơi. 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn