Người đàn bà xúi dại

 Sau lưng mỗi đại nhân là một người đàn bà hay đàn ông tin tưởng vào người phối ngẫu của mình 


Có người hỏi mình tại sao không rủ đồng chí gái đi tập Đông Phương Hội, mình nói không phải là đại nhân. Vợ mình không bao giờ nghe mình cả. Chỉ biết sai. Kêu mình điên điên, không ăn nhậu như chồng của bạn đồng chí gái. Lý do là sau lưng mỗi người đàn ông thành công, đều có một người đàn bà tin tưởng tuyệt đối và tài năng của chồng mình. Vấn đề là nhiều khi người đàn ông được người vợ giúp đỡ trở thành giàu có, nổi tiếng, nhìn lại thấy bà vợ mình quê mùa, không có chân dài tới nách nên buồn đời, như Christophe kêu “non, je ne t’aime plus”. Chán Mớ Đời 

Ông bà Gabriel Garcia Marquez

Người ta thường chỉ biết đến người thành công nhưng quên đến người phối ngẫu. Điển hình là bà thủ tướng Anh quốc, Margaret Thatcher, làm lớn ở Anh quốc, nhờ ông chồng, tề gia, lo cho con, không được tốt lắm vì nghe nói tên con trai phá làng phá xóm hơi nhiều. Trong cuộc đời, người thành công không bao giờ đạt được sự nghiệp một mình. Đều có sự giúp đỡ rất tích cực của nhiều người nhất là người vợ hay người chồng.


Mercedes Barcha Pardo, vợ của Gabriel García Márquez, đóng vai trò không thể thiếu trong hành trình trở thành một trong những nhà văn vĩ đại nhất thế giới, khôi nguyên giải Nobel về văn chương. Bà không chỉ là người bạn đời mà còn là nguồn cảm hứng, người quản lý tài chính, và người cố vấn, giúp ông tập trung vào sáng tác.


Bà Mercedes gặp ông Gabriel García Márquez vào năm 1941 tại Sucre, Colombia, khi bà mới 9 tuổi và ông 14 tuổi, trong một buổi khiêu vũ nơi ông đã cầu hôn bà một cách ngây thơ. Muốn nổi tiếng phải nghĩ đến lấy vợ ở tuổi 14. Kinh. Mối tình hữu nghị này kéo dài qua 14 năm thư từ và xa cách trước khi họ kết hôn vào năm 1958. Trong những năm đầu khó khăn, khi ông García Márquez là một nhà báo và nhà văn chưa thành danh, sự kiên định của Mercedes là chỗ dựa tinh thần cho ông. 


Nhà viết tiểu sử Gerald Martin nhận xét: “Mercedes là kim chỉ nam của ông,” giúp ông vượt qua những giai đoạn tự nghi ngờ và áp lực của sự danh tiếng sau này.


Bà là nguồn cảm hứng cho nhiều nhân vật trong tác phẩm của ông. Úrsula Iguarán, người phụ nữ mạnh mẽ trong Trăm Năm Cô Đơn, phản ánh sự kiên cường của Mercedes. Fermina Daza trong Tình Yêu Thời Thổ Tả cũng mang những nét tính cách của bà, đặc biệt trong cách mô tả một cuộc hôn nhân bền vững và phức tạp. García Márquez từng nói: “Tất cả phụ nữ trong sách của tôi đều có bóng dáng của Mercedes.” Nguồn gốc Ai Cập của bà (cha bà là một dược sĩ gốc Ai Cập) góp phần tạo nên sắc thái huyền bí và đa văn hóa trong chủ nghĩa hiện thực huyền ảo của ông, tương tự như cách trang phục phản ánh di sản.


Việc sáng tác Trăm Năm Cô Đơn (1967) là minh chứng rõ nhất cho vai trò quan trọng của Mercedes. Năm 1965, khi García Márquez, lúc đó 38 tuổi, có cảm hứng bất ngờ trên đường đến Acapulco, Mễ Tây cơ. Bà Mercedes hủy chuyến nghỉ mát gia đình và thúc giục ông về nhà viết. Trong 18 tháng, ông giam mình trong phòng làm việc tại Mexico City, gọi là “hang động của mafia,” trong khi Mercedes chăm sóc hai con trai nhỏ, Rodrigo và Gonzalo, và quản lý tài chính trong cảnh túng thiếu. Kiểu phụ nữ khi xưa, anh chưa thi đỗ thì chưa động phòng. Nhốt ông ta trong nhà, chưa xong chưa cho ra đường. 


Gia đình rơi vào khó khăn: họ bán xe hơi, vay nợ, và sống nhờ lòng tốt của bạn bè như Álvaro Mutis. Mercedes khéo léo đối phó với các chủ nợ, thậm chí thuyết phục một người bán thịt cho mua chịu. Khi bản thảo hoàn thành, họ không đủ tiền gửi 490 trang đến nhà xuất bản ở Buenos Aires. Mercedes cầm cố máy sấy tóc, lò sưởi, và máy xay sinh tố để có 160 peso, đủ gửi nửa bản thảo. Thành công của tiểu thuyết, bán hết 8.000 bản in đầu tiên trong vài tuần và đến năm 2020 đạt 50 triệu bản bằng 46 ngôn ngữ là minh chứng cho sự hy sinh của bà. 


García Márquez đoạt giải Nobel Văn học năm 1982, và bà là người đứng sau vinh quang đó. Mình nhớ năm này ra trường thì thiên hạ nói đến ông ta, trước kia đâu biết ông này. Phải vào thư viện mượn sách ông ta để đọc, có thể vỗ ngực với Tây đầm là đã từng đọc 100 năm cô đơn, lúc đó mình mới 26 năm cô đơn. Nói chung là mình chỉ đọc có cuốn này thôi cuả ông ta. Thật ra bên Tây mình chỉ mượn sách của những tác giả nghe tên khi xưa để đọc nhất là mấy ông Tây bà đầm.

Khi danh tiếng của ông Gabriel García Márquez tăng vọt, Mercedes trở thành lá chắn bảo vệ ông, kiểu bà vợ ông Biden. Sự nổi tiếng mang đến vô số yêu cầu như phỏng vấn, diễn thuyết, và các mối quan hệ chính trị. Mercedes, được bạn bè mô tả là “thông minh sắc sảo” và “một thế lực tự nhiên,” quản lý cuộc sống công khai của ông với sự chính xác. Bà đọc nhiều tờ báo mỗi ngày, chọn lọc tin tức để ông nắm bắt mà không bị phân tâm, giống như cách các chiến lược gia quân sự (như trong câu chuyện Firebase Kate) phân tích thông tin. Bà cũng kiểm soát những ai được tiếp xúc ông, khéo léo từ chối các yêu cầu không cần thiết. Nhà văn Mexico Elena Poniatowska từng nói: “Mercedes là bức tường bạn phải vượt qua để đến với Gabo.”


Bà còn hỗ trợ ông trong các mối quan hệ xã hội và chính trị. García Márquez giao du với các nhân vật như Fidel Castro và Bill Clinton, và Mercedes điều phối những mối quan hệ này với sự tinh tế. Trong những năm 1970, khi ông bị chỉ trích vì quan điểm cánh tả, Mercedes tư vấn cách ông phản hồi công chúng, giúp ông tập trung vào văn chương. Ở Mexico, nơi họ định cư từ năm 1961, bà xây dựng một cộng đồng trí thức Mỹ Latinh, gồm Carlos Fuentes và Julio Cortázar, tạo môi trường sáng tạo cho chồng. Người ta nói gần mực thì đen gần đèn thì sáng nên giao du với các trí thức gia khác giúp đối thoại, hiểu rõ vấn đề hơn. Thay vì lên mạng như ngày nay chửi bú xua la mua.


Sau Trăm Năm Cô Đơn, Mercedes tiếp tục hỗ trợ García Márquez sáng tác các tác phẩm như Thuở Xưa của Tộc Trưởng (1975) và Biên Niên Ký Một Cái Chết Được Báo Trước (1981). Bà đọc bản thảo và đưa ra ý kiến, dù hiếm khi nhận công lao. Khi ông thành lập Quỹ Báo chí Mới Iberoamerican (FNPI) năm 1994, bà giữ vai trò Chủ tịch Danh dự, định hình sứ mệnh đào tạo nhà báo. Sau khi ông qua đời năm 2014, bà lập Quỹ Gabo năm 2017 để bảo tồn di sản của ông, tài trợ các sáng kiến văn học và báo chí.


Bản thân Mercedes để lại di sản sâu sắc nhưng kín đáo. Bà từ chối những lời ca tụng sáo rỗng, khẳng định sự độc lập. Bà qua đời tháng 8 năm 2020 ở tuổi 87, được các lãnh đạo và nhà văn, như Tổng thống Colombia Iván Duque, ca ngợi là “ngọn gió thầm lặng sau thiên tài của Gabo.” Thú thật mình chả biết bà ta là ai đến khi thấy báo chí đăng tải.


Nguồn gốc Colombia-Ai Cập và tuổi thơ ở Magangué mang đến cho bà Mercedes một bản sắc văn hóa phong phú. Bà giới thiệu cho ông García Márquez những giai điệu và truyền thuyết vùng Caribbean, thấm vào chủ nghĩa hiện thực huyền ảo của ông. Ngôi nhà của họ ở Mexico City là trung tâm văn hóa Mỹ Latinh, thể hiện sự hiếu khách và tài tổ chức của bà. Bà yêu thích sự riêng tư, giống chồng, và duy trì thói quen kỷ luật: ông viết vào buổi sáng, bà xem thư từ và lo việc nhà, để không gian sáng tạo riêng cho ông.


Bà cũng ảnh hưởng đến hai con trai. Rodrigo, một nhà làm phim, và Gonzalo, một nhà thiết kế, ghi nhận bà đã dạy họ cách sống với danh tiếng của cha mà vẫn theo đuổi con đường riêng, thể hiện sức mạnh của bà như một người mẹ.

Không có Mercedes, ông García Márquez có thể chỉ là một nhà văn tài năng nhưng vô danh. Sự hy sinh của bà trong sự nghiệp sáng tác Trăm Năm Cô Đơn, khả năng quản lý cuộc sống công khai của ông, và ảnh hưởng văn hóa là những yếu tố cốt lõi cho thành công của ông. Nhà viết tiểu sử Dasso Saldívar viết: “Mercedes không chỉ là người phụ nữ đứng sau người đàn ông; bà là nền tảng của thế giới của ông.” Câu chuyện của bà là bài học về sự đồng hành, kiên cường, và sức mạnh thầm lặng.


Socrate từng tuyên bố trước khi uống thuốc độc: bằng mọi cách phải lập gia đình. Nếu anh tìm được một người vợ tốt thì anh sẽ hạnh phúc. Còn nếu gặp phải một người phụ nữ xấu, thì anh sẽ thành một triết gia”. Mình chỉ muốn hạnh phúc chớ còn triết gia để cho người khác. Cuộc đời mình may mắn gặp đồng chí gái. Xong om


Ngày nay về hưu, mình nhất trí hỗ trợ mụ vợ học Tây ban cầm và hát karaoke. Biết đâu một ngày nào đó, đồng chí gái sẽ nổi tiếng trên YouTube, được khối tiền. Khỏi phải trồng bơ. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

50 năm sau (1975-2025)

 50 năm sau (1975-2025)

Tuần này giỗ ông cụ mình, buồn nhớ lại thời xưa nhất là những 15 năm dài ông cụ bị đầy đọa nơi trại cải tạo. Bi kịch lịch sử của 20 triệu dân miền nam phải chịu đựng sau ngày 30/4/75. Hàng triệu người bỏ nước ra đi, theo thống kê của Liên Hiệp Quốc thì có đến phân nữa bỏ mình trên đại dương. Bổng mình nhớ đến bài ca « 20 năm » của nhạc sĩ Phan Văn Hưng một thời du học tại Paris, vẫn hiện thực sau 50 năm. Những bài hát của anh ta và ca đoàn Lam Sơn đã giúp mình vượt qua những gian nan thời sinh viên, tỵ nạn ở Paris. Mất liên lạc với gia đình sau ngày Đà Lạt bỏ ngõ, suốt 3 năm liền. Nghe nói anh ta nay đã định cư tại Úc Đại Lợi.

Nhạc sĩ Phan Văn Hưng, gần đây mới biết là em trai của ông Phan Văn Trường

Anh này mình chưa bao giờ gặp ở Paris, chỉ thấy hát ở hội chợ Tết của tổng hội sinh viên Việt Nam tại Paris. Dạo đó có văn đoàn Lam Sơn có nhiều bài hát truyền cảm hứng của Trúc Lan, Phan Văn Hưng, Đinh Anh Tuấn,… rất hay. Nghe nói Khúc Lan, Khúc minh và Đinh Anh Tuấn nay định cư tại Hoa Kỳ. Mình có mua tập nhạc này với mấy băng cassette nhưng dọn nhà bao nhiêu nước nên lạc đâu mất. Anh Phan Văn Hưng có phổ thơ của cô Minh Đức Hoài Trinh, bài ‘Ai Về Xứ Việt,” rất nổi tiếng nhưng có lẻ bài “Tiễn em rời K18” khiến mình khóc rất nhiều. Mỗi lần nghe: “về đi em, đừng lên thăm nữa em ơi, còn thương nhau thì xin sống nuôi con…, nơi chồng đi chẳng có ngày về, nhà cách ly chờ chôn người tù K 18, nhắn mẹ già anh vẫn nhớ đến me. Về đi em đừng lên thăm nữa em ơi. ….” Mỗi lần nghe, khóc như một dòng sông của Đức Huy.


Mình nghe, học đánh đàn để hát bài này mường tượng đến cảnh mẹ mình đi thăm nuôi ông cụ suốt 15 năm, hy vọng một ngày nào đó, cách mạng khoan Hồng cho trở về với vợ con. Có lẻ bài hát này theo mình suốt thời gian 20 năm đến khi về lại Đà Lạt lần đầu sau gần 20 năm, gặp được ông cụ vừa ra trại cải tạo. Mỗi lần ăn, lại nhớ ông cụ trong tù nên nuốt không không vô. Tương tự khi nghe bài “một chút quà cho quê hương” của Việt Dũng, khi gói quà cho nhà đem gửi ở Paris, Torino, Luân Đôn, New York, Cali,…


Con gởi về cho cha một manh áo trắng 
Cha mặc một lần khi ra pháp trường phơi thây 
Gởi về Việt Nam nước mắt đong đầy 
Mơ ước một ngày quê hương sẽ thanh bình


Sinh viên Việt Nam tại Paris để tang cho Sàigòn ngày 27/4/1975. Ảnh Trần Đình Thục. Có ai còm cho biết là anh ta có mặt tỏng buổi tuần hành này.

Cuộc đời tỵ nạn của mình gắn liền với những bài ca như “Sàigòn niềm nhớ không tên” của ông Nguyễn Đình Toàn.

Sài Gòn ơi! Ta mất người như người đã mất tên 

như giòng sông nước quẩn quanh buồn 

như người đi cách mặt xa lòng 

ta hỏi thầm em có nhớ không 


Sài Gòn ơi! Đến những ngày ôi hè phố xôn xao 

trong niềm vui tiếng hỏi câu chào 

sáng đời tươi thắm vạn sắc màu 

nay còn gì đâu... 

hình như ông Võ Văn Ái ở Paris có làm thêm mấy câu tỏng tạp chí Quê mẹ:

Sàigòn ơi! Ta sẽ về tay cầm súng bên em


Lâu quá không nhớ lời bài hát

 

TIỄN EM RỜI K18
[Phan Văn Hưng - Nam Dao]

Em về đi, thôi đừng lên thăm trại K18
Anh ngoài đây như chết thật rồi
Đừng xót thương đời một tên tù K18
Nhắn mẹ rằng anh vẫn nhớ đến me.

Về đi em, đừng lên thăm nữa em ơi
Còn thương nhau thì xin sống nuôi con
Đừng đến nữa, van em đừng đến em ơi
Đường gian lao, vùi mạng dốc Ô Ba.

Anh ở lại, giam đời mình trong trại K18
Chồng Lồ Ô liệm kín đời người
Nhà Cách Ly, chờ chôn người tù K18


Mỗi lần nghe tới đây là mình lo sợ vì đọc các hồi ký của những người thoát được trại tù kể thì rợn tóc gáy. Họ kể về những cảnh chết trong tù rồi được bạn tù chôn ở đâu đó. Có lẻ hồi ký “Thép Đen” của Đặng Chí Bình khiến mình ớn lạnh nhất. Không ai kể rõ và vẽ lại trong nhà giam như ông này.


Dạo ấy, bà nội mình còn sống. Ông nội vào Nam thăm gia đình mình đúng lúc ông cụ bị bắt, không được thăm viếng. Ông nội về lại quê rồi qua đời. May sau này, ông cụ mình được thả về quê, sau 40 năm, sống với bà nội được vài năm rồi bà qua đời. Mình nghĩ người Việt ở Việt Nam có rất nhiều gia đình đồng cảnh ngộ. Nhớ lời ông cụ dặn, mẹ mình ra Bắc, thăm quê chồng, lo chăm sóc ông bà nội đàng hoàng.


Hình như trong phần văn nghệ của Tổng Hội Sinh Viên Paris có hoạt cảnh khi họ hát bài này. Tiễn em K18.


Chết vội vàng, manh áo rách bó thây.

Về đi em, đừng lên thăm nữa em ơi
Gặp nhau thêm, càng đau đớn cho nhau
Đừng khóc nữa, van em đừng khóc nữa em ơi
Tình đôi ta đành hẹn lại kiếp sau.

Em trở về, với cuộc đời cô phụ trông mòn mắt
Nơi chồng đi, không có ngày về
Đời nát tan chờ mong người tù K18
Sống dật dờ năm tháng úa héo tàn

Giờ chia ly, lòng ta trăm mối đau thương
Ngoảnh trông theo, nào em quá xa ta
Còn nước mắt, tuôn rơi nào tiễn chân em
Đành xa nhau chờ hẹn lại kiếp sau.

Về đi em, đừng thăm nữa em ơi
Gặp nhau thêm, càng đau đớn cho nhau
Đừng khóc nữa, van em đừng khóc nữa em ơi
Tình đôi ta đành hẹn lại kiếp sau.


Nghe kể bà cụ mình khi xưa, hay hát bài “Ngày Trở Về” mà khi xưa ông Duy Khánh hát trong băng nhạc Trường Sơn. Ngày trở về anh bước lê, mẹ mình lần mò ra trước ao để nắm tay ông cụ ngỡ trong giấc mơ…. Những người nghe rất cảm động, thương cho bà cụ lặn lội thăm nuôi chồng suốt 15 năm.


Trại tù K18, sau này được đổi tên Kim Sơn ở Bình định mà Hà Nội vừa tổ chức kỷ niệm hoành tráng 60 năm thành lập trại giam này. Lạ chỉ có Việt Nam mới tổ chức ăn mừng kỷ niệm xây tù nhốt thiên hạ. Hóa ra nhà tù này vẫn còn. Lần trước về Việt Nam, mình có đi ngang vùng này mà không biết, để ghé xem nhà tù danh tiếng này. Nơi chôn biết bao nhiêu người Việt ở tù cải tạo.

https://congan.binhdinh.gov.vn/vi/news/hoat-dong-cua-nganh-cong-an/trai-giam-kim-son-tu-hao-truyen-thong-60-nam-xay-dung-chien-dau-truong-thanh-2237.html


20 năm sau biến cố 30/4/1975, nhạc sĩ Phan Văn Hưng có làm bản nhạc 20 năm (1995) nhưng nếu cộng thêm 30 năm nữa (2025) thì vẫn thấy không khác chút nào nên mình tải lại đây do ca sĩ Nguyên Khang trình bày.

https://youtu.be/2EGBKQUE0Wo?si=BD41N9FPsV7ME9i1


Hai mươi năm,

đàn trẻ thơ nay đã lớn 

và chàng trai nay đã già

Những người xưa đã nằm xuống, 

và rừng núi đã héo nhoà.


Hai mươi năm, 

người cụt chân trên hè phố, 

kẻ quyền uy trong căn nhà,

Người nằm rên trong hộ xá, 

là người sáng hay đã loà,


Người bỏ thây nơi trùng dương, 

mộng nhổ neo trên sóng gầm,

Những hồn ma sau hàng kẽm, 

những con mắt sâu trừng trừng

Người nằm chết trên núi sông, 

người đào sắn trên ruộng đồng,

Người lặn lội vẫn đi tìm, 

bao con đường dấu quê hương.


Hai mươi năm, 

những người đi đã về bến,

một vùng quê hương không còn, 

Những người điên trong ngục khám, 

một đoàn quân trong khách sạn.


Hai mươi năm,

nhiều kẻ gian trong làng xóm, 

người hiền khô mang gông cùm

Kẻ mộng du lên bạo chúa, 

người ngồi khóc trên sân chùa.

Người hùng xưa nay giầu sang, 

một thằng bé đứng trần truồng, 

nhìn người qua buôn và bán, 

kẻ gian ác đi nghêng ngang.


Người già nua có nhớ không, 

hay đã quên những mối tình, 

người đập đá trên nông trường, 

trơ lưng còm giữa gió sương.


Hai mươi năm, 

những nụ hoa cho người hái,

những thể xác cho ai đày,

một thầy cô trong nhà chứa, 

gặp trò xưa bỗng khóc oà.


Hai mươi năm,

người còn tâm hay còn trí, 

lòng sục sôi như vỡ bờ,

đàn lạc giây đã bỏ xó, 

còn vọng nghe tiếng nức nở.


Người chạy quanh theo thời thế, 

ruồi nhặng xanh bu lối về

Mẹ lặng im bên mồ đá, 

nào có biết gió thu qua?

Một người đi trong đám ma, 

mặc người vui trong xa hoa.

Người tù tội trước quan toà,

chỉ gục đầu giấc mơ xa!


Hai mươi năm,

triệu người đi trong cuộc sống, 

mà thể xác như không hồn

Triệu người lao trong cùng khốn, 

và buồn vui như bao lần.


Hai mươi năm, 

Người hiền lương dẫu còn sống,

phải cật lưng trong thiên đường,

Những vệt nhăn trên vầng trán, 

và hòn than nung trong lòng.

Người còn yêu hay còn nhớ, 

phải vượt qua những bến bờ,

phải tìm sâu trong hồn nước, 

những thôi thúc những mong chờ,

Người còn tha thiết núi sông, 

thì sẽ thấy cơn mưa nguồn

Người lặn lội vẫn đi tìm, 

sẽ thấy đường dấu quê hương!

Phan Văn Hưng - Nam Dao

50 năm sau, người Việt vẫn tiếp tục bỏ nước ra đi, lao động quốc tế hay có chút tiền thì đi lậu qua biên giới Mễ để vào Hoa Kỳ. Ai có tiền thì đi theo diện đầu tư hay lấy vợ chồng giả như khi xưa nhận con lai để đi Mỹ. Kẻ ác vẫn quảng cáo bán sữa thuốc giả cho dân mình.


50 năm sau thì mình cũng gần 7 bó, con cháu đều lớn. Việt Nam đối với chúng rất xa vời. Những người lớn tuổi xưa đã được đi theo diện bảo lãnh về chốn xa xăm. Chúng ta đã quên những mối tình của tuổi niên thiếu. Bạn bè không nhận ra nhau, ký ức đã trôi theo những con thuyền viễn xứ, của dòng sông không trở lại.


50 năm để thấy Tân Gia Ba trở thành một nước giàu có nhất Đông Nam Á. Lợi tức hơn cả người Mỹ. Người Việt qua xứ này đứng đường. Mà xưa kia trước 30/4/75, người giàu xứ này chạy qua Sàigòn để được chữa bệnh tại bệnh viện Chợ Rẫy. Nay thì người giàu Việt Nam chạy qua đây chữa bệnh.


50 năm ta còn gì? Chúng ta còn tha thiết với núi sông? Người lặn lội đi tìm sẽ thấy đường dấu quê hương.

Chân trời trước mặt của quê hương ta sẽ nở hoa, những đôi mắt này còn nhìn nhau còn hẹn một ngày. Có bài hát do Khúc Lan và Phan Văn Hưng trình bày mà mình rất yêu thích:

Tôi sẽ hát xuyên qua đỉnh núi, xin mặt trời soi lại ngục tối, tôi sẽ hát xuyên qua biển xanh, ngọn sóng ơi thôi gieo bão bùng, tôi sẽ hát cho người vùng dậy, to sẽ hát to đập tan xích xiềng. Hát lên đi thơm lời tự do. Hát lên đi cho dân tôi thôi tù tội. Hát lên đi cho một ngày về.

Bài ca này đem lại cho mình một niềm tin, tương lai sẽ gặp lại gia đình. Vì dạo ấy mình mất liên lạc với gia đình đến 3 năm. Nếu không có mấy bài hát của sinh viên Paris thì chắc khó mà giữ được niềm tin ngày mai tươi sáng. Hát cho một niềm tin, hát cho một ngày về. Nếu không có những bài hát này, có lẻ mình và nhiều bạn sinh viên việt khi xưa đã bỏ học.


Ngồi viết lại đôi dòng sau 50 năm, nghe Charles Aznavour hát “Hier encore” thấy thấm thía nỗi buồn mất quê hương, Việt Nam Cộng Hoà sau 50 năm.



Hier encore, j′avais 20 ans
Only yesterday I was twenty years old
Je caressais le temps et jouais de la vie
I caressed time and I enjoyed life
Comme on joue de l'amour et je vivais la nuit
Like one savours love and I lived for the night
Sans compter sur mes jours qui fuyaient dans le temps
Without counting my days that were wasting away with time
J′ai fait tant de projets qui sont restés en l'air
I've made so many plans that never came to life
J'ai fondé tant d′espoirs qui se sont envolés
I've build on so many hopes that withered away
Que je reste perdu, ne sachant où aller
Will stay lost not knowing where to go
Les yeux cherchant le ciel mais le cœur mis en terre
My eyes looking for the sky but my heart buried
Hier encore, j′avais 20 ans
Only yesterday I was twenty years old
Je gaspillais le temps en croyant l'arrêter
I've wasted the time thinking I could make it stop
Et pour le retenir, même, le devancer
And in order to retain it or even get ahead of it
Je n′ai fait que courir et me suis essoufflé
I did nothing but to run and I ran out of breath
Ignorant le passé, conjuguant au futur
Ignoring the past conjugating only in the future tense
Je précédais de "moi" toute conversation
I preceded every conversation
Et donnais mon avis que je voulais le bon
And I spoke my mind I only wanted to do good
Pour critiquer le monde avec désinvolture
By criticizing the world with insolence

Hier encore, j'avais 20 ans
Only yesterday I was twenty years old
Mais j′ai perdu mon temps à faire des folies
But I've wasted my time by doing foolish things
Qui ne me laissent, au fond rien, de vraiment précis
That had me take off nothing specific
Que quelques rides au front et la peur de l'ennui
Except for some wrinkles on my forehead and fear of boredom
Car mes amours sont mortes avant que d′exister
All my romances are dead before they even existed
Mes amis sont partis et ne reviendront pas
My friends have left and won't come back
Par ma faute j'ai fait le vide autour de moi
Through my fault I've build an empty space around me
Et j'ai gâché ma vie et mes jeunes années

Mình có nhiều mộng ước, hoài bảo khi đi du học nhưng không thực hiện được. Nay thì cuộc sống ổn định bên đồng chí gái, cùng một lứa bên trời lận đận. Cuối tuần vừa rồi, họp mặt thân hữu, có anh bạn kể đi vượt biển, bị bể ở tù ở Cà Mau, muỗi to như con ruồi đốt. Đứng chào cờ trước khi được thả, thề với cán bộ không bỏ nước ra đi, về đến nhà là có người móc nối đi vượt biển nữa, lại gật đầu, đi tiếp. Nhìn lại anh ta nói nếu phải làm lại, anh ta vẫn quyết ra đi dù có bỏ thây trên biển cả.


Tôi sẽ hát xuyên qua biển xanh, ngọn sóng ơi thôi gieo bão bùng…


50 năm sau, người Việt vẫn ra đi. Thế hệ cháu của mình lại tiếp tục ra đi. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn