Vụ ông Zelensky cãi nhau ở toà Bạch Cung khiến thiên hạ bàn tán đủ trò. Điểm hay ở thời internet, giúp mọi người trở thành những chuyên gia đại tài. Ai cũng là chuyên gia về quân sự, ngoại giao như ông Tây Talleyrand hay ông người Áo Metternich khi xưa, là người mà ông Kissinger nghiên cứu rất sâu và muốn để lại dấu ấn như ông này. Mình đọc thêm tài liệu trên mạng ở Âu châu thì thấy có nhiều điều đáng được nêu ra khi tổng thống pháp Macron lên tiếng, rồi liên hiệp Âu châu họp hành xôm tụ, đồng ý chi viện cho Ukraina này nọ. Về nhà hỏi vợ thì thấy không đủ tiền nên chỉ chi viện 2% số tiền dự định. Thế là ngọng. Bác Puchin lại cười thối mũi. Kêu chúng mày mà đánh tao, tao cúp bán dầu khí cho chúng mày đánh ai, vợ con chúng mày đè đầu chúng mày ra mà đập.
Điều này đã chứng tỏ người Âu châu vẫn sống trong mộng tưởng, là nền văn minh của họ vẫn là ngọn hải đăng của thế giới như các thế kỷ trước từ thời Phục Hưng, đến cách mạng kỹ nghệ,… mình từ hỏi nguyên do từ đâu, vì tháng 10 năm vừa rồi, mình về lại pháp, Ý Đại Lợi, Slovenia thì khám phá cuộc sống ở đây rất khác với thời mình sinh sống tại Âu châu. Thay đổi rõ ràng. GDP của Âu châu dạo đó tương đương với Hoa Kỳ mà nay chỉ còn phân nữa của Hoa Kỳ.
Tổng thống Zelinsky lại quay lại với bác Trump. Bác Trump lại viện cớ xứ tôi ở xa, chả dính dáng gì đến mấy bác, tại sao lại kêu em trả tiền cho mấy bác đánh nhau. Nên nhắc lại Đại đế Napoleon tuyên bố những không biết có đúng hay không, rằng mọi cuộc chiến tranh ở châu Âu đều là một cuộc nội chiến. Mình tìm thêm chút trên mạng thì có nhiều nhân vật danh tiếng như Victor HUgo, Voltaire, thậm chí André Maurois cũng nói lên câu này.
Ngẫm lại thì đúng với những gì mình được ông Tây bà đầm dạy sử Tây khi xưa vì các triều đình ở Âu châu đều cho con cháu lấy nhau nên vua xứ nào cũng là họ hàng với nhau. Điên nhất là phải học cuộc chiến 100 năm (la guerre de cent ans ) hay cuộc chiến 30 năm (guerre de trente ans),.. Nên khi đánh nhau ở Âu châu như ông Nã phá Luân tuyên bố là nội chiến. Do đó sử gia cho rằng giai đoạn 1914-1945 là một cuộc tự sát huynh đệ tương tàn kéo dài. Châu Âu không bị chinh phục. Nó tự hủy diệt. Những gì nó mất không phải là đất đai, vì các cuộc chiến ở Âu châu khi xưa, dành đất nhau từ các vua chúa họ hàng với nhau. Người Tây phương mất ký ức, sự cao quý và quyền tự định nghĩa, bản tính của họ. Do đó ngày nay Âu châu bị tha hoá bởi các ý thức hệ mới được phát sinh tại Âu châu để thay thế các triều đại trước thế kỷ 20. Trong lịch sử hiện đại thì chúng ta chưa hiểu rõ ảnh hưởng của sự thay đổi này. Điểm thấy rõ nhất là người dân sinh sống tại Âu châu có rất nhiều người nhập cư từ các châu khác cũng như tôn giáo. Mất đi sư đồng nhất về chủng tộc cũng như tôn giáo.
Trước năm 1914, châu Âu vẫn mang cấu trúc hữu hình của một trật tự cổ xưa và hữu cơ. Lục địa này không được cai trị bởi những nhà tư tưởng hay quan liêu, mà bởi những nhóm tinh hoa cha truyền con nối, những người hiểu vai trò của họ là người giám hộ di sản. Các quốc vương cai trị bằng quyền thiêng liêng và luật tổ tiên, tính hợp pháp của họ không bắt nguồn từ những điều trừu tượng mà từ dòng dõi, đất đai và huyết thống. Nhà Habsburg, Borghese, Hohenzollern, Romanov và Bourbon không chỉ là những người cai trị; họ là hiện thân của ký ức văn minh của Châu Âu từ bao ngàn năm. Tòa án của họ ủng hộ một thế giới mà thứ bậc là tự nhiên, nơi nghĩa vụ lấn át ham muốn, và nơi chiến tranh, nếu có xảy ra, thì bị giới hạn bởi phong tục và luật pháp.
Châu Âu khi đó không phải là chiến trường của các hệ thống tư tưởng, mà là một gia đình lớn của các quốc gia, vừa chia rẽ vừa anh em, gắn kết với nhau bởi nguồn gốc chung và các hình thức thừa kế. Đại khái hoàng hậu Marie-Antoinette là con gái của hoàng đế Áo Quốc, lấy con trai của vua Pháp. Các dân tộc châu Âu-Latin, Đức, Slav, đã được định hình bởi Kitô giáo, tinh thần hiệp sĩ và di sản cổ điển. Các cuộc chiến của họ, mặc dù nhiều, nhưng bị giới hạn bởi trật tự Westphalia: chiến tranh được tiến hành giữa các quốc gia, không phải giữa các dân tộc; hòa bình là điều có thể vì kẻ thù không bao giờ bị đối xử như một tội phạm, mà là một đối thủ có yêu sách về danh dự. Khi xưa, họ trọng danh dự, thà đấu kiếm để lấy lại danh dự còn ngày nay, chả có gì để mất nên chỉ biết Chán Mớ Đời. Họ mới khám phá ra một giáo sư đại học tại Chicago, lấy chìa khoá rạch sơn xe Tesla.

Ngày nay, chúng ta dùng ý thức hệ, tư tưởng của thế kỷ 20 để đánh giá cuộc chiến Ukraina mà quên xét lại lịch sử của hai xứ này từ 1,000 năm qua. Có phải là cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn hay cuộc chiến ý thức hệ tự do, bình đẳng, bác ái cấp tiến được sử dụng như một chiêu bài. Trên thực tế các cuộc cách mạng bùng nổ tại Pháp, Nga,..nhân danh nhân quyền, tự do bình đẳng này nọ chưa bao giờ được thực hiện đem lại no ấm cho người dân. Những mỹ từ mà mình học từ bé từ ông Tây bà đầm Liberté, égalité, fraternité từ 60 năm trước thấy không đúng lắm.
Bên dưới thế giới quý tộc này là sự thống nhất về mặt tinh thần. Khái niệm “noblesse oblige” phản ánh đạo đức chiến binh của thời xưa: quyền lực mang theo nghĩa vụ, và quy tắc chỉ được biện minh khi được thúc đẩy bởi lòng dũng cảm, sự hy sinh và phục vụ cho một điều gì đó cao cả hơn bản thân. Con trai của giới quý tộc khi xưa, hình như ai cũng phải tham gia quân đội như ông vua Charles và hoàng tử William ngày nay. Đây chính là bản chất của nền văn minh châu Âu. Ở Phổ, nó thể hiện dưới dạng kỷ luật; ở Áo, dưới dạng sự gắn kết đế quốc; ở Nga, dưới dạng chính thống thần bí; ở Pháp, dưới dạng chủ nghĩa cộng hòa hào hiệp với tàn dư quân chủ; ở Anh, dưới dạng nghĩa vụ khắc kỷ. Đây không phải là những mâu thuẫn, mà là những biến thể của một chủ đề duy nhất. Ngày nay, mình về Pháp, Ý Đại Lợi thì không nhận ra những gì mình đã sống 50 năm về trước.
Trật tự này không hoàn hảo, nhưng nó vẫn tồn tại. Nó bảo tồn thứ hạng và ý nghĩa trong một thế giới trước khi đại chúng hóa. Nó chống lại làn sóng dân chủ, kỹ trị và thương mại đang dâng cao. Nó chứa đựng bên trong nó những tàn tích của sự thiêng liêng, của ngai vàng và bàn thờ, của người lính và nhà hiền triết. Nội chiến châu Âu, khi xảy ra, sẽ không chỉ phá hủy các quốc gia hay biên giới. Nó sẽ cắt đứt châu Âu khỏi ký ức của nó, phá vỡ tầng lớp tinh hoa hữu cơ của châu Âu và lập nên một chế độ mà đồng tiền thống trị, nơi lịch sử là tội ác và nơi bản thân giới quý tộc bị nghi ngờ. Lịch sử do người thắng trận viết nên chúng ta học tập về thời đại quân chủ xưa rất gian ác, bốc lột tá điền này nọ.
Đi viếng Trung-Á và vùng Caucase thì thấy họ trùng tu lại các nhà thờ và giáo đường hồi giáo đã bị phá hay làm chỗ nuôi bò dê dưới thời Liên Xô,… ngày nay các nhà thờ ở Âu châu, không có người đi, được biến thành các khu thượng mại, vũ trường. Mặc dù tôn giáo không bị cấm đoán. Ở Torino, mình vào nhà thờ thăm một ông linh mục người Việt, được điều sang đây làm việc. Lý do là mấy ông linh mục người ý đã già mà người ý trẻ không đi tu nên nhà thờ phải điều các linh mục ở các xứ khác đến làm việc. Mình hỏi vị linh mục gốc Bắc, lý do đi tu thì được trả lời là gia đình nghèo nên cho đi tu để có ăn và được đi học. Cho thấy tương lai các tài sản của nhà thờ sẽ bị phát tán khi không còn tu sĩ.
Đại chiến không phải do ý thức hệ gây ra, mà do sự điên rồ của anh em. Một lục địa của những người anh em họ, gắn bó với nhau bởi huyết thống và lịch sử, đã lao vào một cuộc xung đột chưa từng có. Những gì bắt đầu là một cuộc tranh chấp Balkan đã di căn thành một cuộc chiến tranh toàn diện sẽ san bằng ngai vàng, làm chảy máu các tầng lớp quý tộc và giải phóng những con quỷ mà không một chính khách nào có thể nhớ lại. Các quốc gia châu Âu đã huy động quân đội vào năm 1914 với niềm tin vào một cuộc chiến tranh danh dự ngắn ngủi. Những gì họ nhận được là cuộc tàn sát cơ giới, chiến tranh chiến hào và sự tan rã của mọi sự chắc chắn dẫn đường. Thấy chiếu cảnh các Binh sĩ bị hơi ngạt giết như mơ thấy chiến tranh huynh đệ tàn khốc. Đó là chưa kể đến đế chế Ottoman cũng nằm bên cạnh, cũng bị tiêu diệt luôn trong trận hồng thủy này.
Đây là vết thương tự tạo đầu tiên của phương Tây. Chưa bao giờ các quốc gia da trắng lại tập hợp sức mạnh công nghiệp của mình một cách tàn nhẫn như vậy để chống lại nhau. Những thành quả của thiên tài phương Tây, hóa học, đường sắt, pháo binh, điện báo, đã hướng vào bên trong. Châu Âu, mẹ của nền văn minh, đã tự xé nát mình bằng những móng vuốt bằng thép và lửa. Các chiến hào ở Somme và Verdun không chỉ là nghĩa địa của con người; chúng là nghĩa địa của ý nghĩa. Bộ luật quý tộc, đạo đức kiềm chế, lòng dũng cảm và sự cân xứng, đã bị nhấn chìm trong bùn và khí gas. Khi viếng thăm Trieste, mình có chạy ngang nhưng không có thời gian để ghé viếng cái nghĩa địa trên 600,000 người đã bị giết trong thế chiến thứ 1. Mình có kể vụ này, mấy anh lính Ý Đại Lợi ngu cứ hô tấn công, làm bia để mấy anh lính Áo-Hung ria chết như rạ.
Khi chiến tranh kết thúc, trật tự cũ đã nằm trong đống đổ nát. Nhà Habsburg, Hohenzollern và Romanov đã bị cuốn trôi, vương miện của họ bị chôn vùi dưới những đam mê dân tộc chủ nghĩa, thế giới đại đồng và giáo điều tự do. Cách mạng nổ ra ở Nga, mình có kể vụ ông Lê-nín được Đức quốc giúp đỡ để trở về Nga, làm cách mạng để Sa Hoàng không tấn công phía đông của Đức quốc. Tình trạng hỗn loạn lan rộng khắp Trung Âu, và ngay cả trong phe chiến thắng, Anh và Pháp, cái giá phải trả quá lớn đến nỗi chiến thắng trở nên không thể phân biệt được với thất bại. Luân Đôn bị đánh bom nát tương dù là kẻ chiến thắng. Hoa Kỳ, không bị ảnh hưởng và đang lên ngôi, nổi lên không phải như một người anh em mà là một chủ nợ, mang chủ nghĩa tự do cứu thế nhầm lẫn thương mại với hòa bình và dân chủ với văn minh. Sự suy sụp của Âu châu trên đống tro tàn sau cuộc đại chiến, chỉ còn biết mơ về Giấc Mơ Hoa Kỳ.
Hiệp ước Versailles đã không khôi phục lại trật tự. Nó tôn thờ sự căm thù và làm mất ổn định những gì còn lại của sự cân bằng lục địa. Khi nghiền nát kẻ bại trận, nó đã đầu độc tương lai. Chiến tranh không giải quyết được bất cứ điều gì. Nó chỉ đặt nền tảng cho một sự tính toán khủng khiếp hơn. Điều khiến nó trở thành một cuộc nội chiến theo nghĩa sâu sắc nhất không chỉ là tổ tiên chung của những người tham gia, mà còn là những hàm ý về mặt tinh thần của cuộc xung đột. Châu Âu đã tự quay lưng lại với chính mình, làm kiệt quệ những người tài giỏi nhất của mình, và mở ra cánh cổng cho một giai cấp thống trị mới không bị ràng buộc bởi danh dự, lịch sử hay quốc gia.
Những gì đã mất vào năm 1918 không chỉ là lãnh thổ hay triều đại, mà là quyền lực trong ký ức của Châu Âu. Hôm trước, hai vợ chồng đi ăn với chị bạn mà lâu lắm rồi không gặp, chắc cũng 15 năm từ ngày anh chồng, bạn học cũ của mình ở Đà Lạt qua đời. Chị ta không nhớ là gia đình mình có ghé thăm và ở nhà của họ 2 ngày. Chỉ có 15 năm mà đã quên thì các cuộc cách mạng nổi lên sẽ xoá bỏ hết ký ức. Một thế giới từng biết sự khác biệt giữa chế độ cai trị và chế độ chuyên chế, giữa trật tự và hiệu quả, giờ đây loạng choạng tiến tới một tương lai được cai trị bởi hệ tư tưởng, quần chúng và máy móc. Cái gọi là "Chiến tranh thế giới thứ nhất" không phải là sự kết thúc của lịch sử mà là sự khởi đầu của một cuộc suy thoái dài, một cuộc tự tử thực sự bắt đầu của nền văn minh âu châu. Trước đây người ta gọi thế kỷ ánh sáng của Âu châu với nhiều nhà tư tưởng danh tiếng nhưng khi áp dụng các ý thức hệ này thì đem lại kết quả tai hại với hai thế chiến oan nghiệt. Rồi đưa đến 50 năm bị đô hộ bởi Hồng quân của Liên Xô và NATO của Hoa Kỳ.
Cuộc chiến năm 1939 không phải là phần tiếp theo mà là sự tiếp diễn. Châu Âu, vốn đã bị tàn phá và sỉ nhục, lại bị đẩy vào cuộc chiến thứ hai mà không còn đủ sức để tồn tại. Các hệ tư tưởng trỗi dậy từ đống tro tàn năm 1918. Chủ nghĩa cộng sản ở phương Đông, Chủ nghĩa tự do ở phương Tây và Chủ nghĩa xã hội quốc gia ở Đức, không phải là những sự lệch lạc mà là biểu hiện của một châu Âu bị xé toạc khỏi cội nguồn, tìm kiếm sự cứu rỗi ở những vị thần mới. Sự hòa hợp cũ của các dân tộc đã bị phá vỡ. Cuộc đấu tranh anh em năm 1914 đã trở thành cuộc chiến của toàn bộ.
Trong giai đoạn thứ hai của cuộc nội chiến này, phương Tây mất mát nhiều hơn là con người và thành phố. Nó đã mất đi linh hồn của mình. Cuộc đấu tranh không còn là giữa các quốc gia đối địch của một nền văn minh chung mà là giữa những viễn cảnh hủy diệt lẫn nhau về con người, lịch sử và quyền lực. Cuộc chiến đã mang đến sự đảo ngược hoàn toàn hệ thống phân cấp của châu Âu. Các chế độ quân chủ đã sụp đổ trong giai đoạn đầu tiên; giờ đây, tàn dư quý tộc của trật tự cũ của châu Âu bị coi là phản động, tội phạm hoặc lỗi thời. Đội tiên phong quân sự của linh hồn cũ của châu Âu, những người theo chủ nghĩa dân tộc sẵn sàng chống lại làn sóng toàn cầu nhất, đã bị tiêu diệt trên chiến trường, bị treo cổ tại Nuremberg hoặc bị lưu đày trong im lặng.
Dưới ngọn cờ dân chủ và chống phát xít, những người chiến thắng đã tàn phá những gì còn lại của nền độc lập châu Âu. Hồng quân đã trải rộng trên một nửa lục địa, thiết lập các chế độ chư hầu cai trị bằng khủng bố và dựa vào sự đổ nát của truyền thống. Ở phương Tây, Hoa Kỳ áp đặt hình thức chiếm đóng của riêng mình, nhẹ nhàng hơn, tinh tế hơn nhưng không kém phần thực tế. Tiền của Mỹ đã xây dựng lại đống đổ nát, nhưng cái giá phải trả là tinh thần: giáo dục lại, giải trừ quân bị về mặt đạo đức và một vị trí cố định trong đế chế tiêu dùng toàn cầu. Ở cả phương Đông và phương Tây, kết quả đều giống nhau. Châu Âu sẽ không bao giờ còn nắm quyền kiểm soát vận mệnh của chính mình nữa. Bao nhiêu thuộc địa cũ đều bị bắt trao trả lại cho các nước nhược tiểu. Phía đông thì có khối Varsovie do Nga nắm đầu, phía Tây thì có khối NATO do anh Mỹ nắm đầu. Không có anh Tây bà đầm nào lãnh đạo cả.
Cuộc chiến tranh thứ hai này đánh dấu sự rạn nứt cuối cùng giữa châu Âu và ký ức quý tộc của nó. Bản thân khái niệm về một quốc gia có chủ quyền bắt nguồn từ văn hóa và nghĩa vụ thiêng liêng được coi là nguyên nhân gây ra thảm họa. Thay vào đó, một chế độ chống châu Âu được định nghĩa bởi các quyền phổ quát, sự suy thoái được quản lý và nỗi sợ hãi bệnh hoạn về sức mạnh đã trỗi dậy. Những người chiến thắng đã viết lại ý nghĩa của cuộc chiến. Nó không còn là một thảm kịch giết anh em mà là một vở kịch đạo đức. Những người chết bị lãng quên trừ khi họ phục vụ cho câu chuyện mới. Công lý của những người chiến thắng đã được tôn sùng; những kẻ bại trận đã bị quỷ ám. Toàn bộ các quốc gia đã được dạy phải ghét quá khứ của chính họ. Đưa đến chủ nghĩa thức tĩnh.

Vụ tự tử thứ hai của phương Tây đã hoàn thành việc phá hủy hệ thống miễn dịch văn minh của nó. Giới tinh hoa văn hóa của nó, từng được thúc đẩy bởi lịch sử và đức tin, đã bị thay thế bởi các nhà quản lý, kế toán và nhà tư tưởng. Giáo hội, vốn từng là trung gian giữa kiếm và quyền trượng, giờ đây là một tổ chức phi chính phủ mặc áo choàng. Gia đình đã được định nghĩa lại, biên giới được mở ra, trường học bị đầu độc và nghệ thuật bị vô trùng. Khi chiến binh, linh mục và nhà thơ bị loại bỏ, không còn gì để bảo vệ tâm hồn của châu Âu. Khi thủ tướng Anh quốc nói sẽ gửi lính sang Ukraina khiến thiên hạ cười, lính của Đức quốc tập trận mà không có súng, phải dùng chổi thế. Diễn văn của phó tổng thống Vance tại Âu châu như đã thức tĩnh người Âu châu. Không có quân đội Mỹ thì họ sẽ bị tấn công vì bao nhiêu năm nay, họ bỏ vụ quân dịch. Daọ sinh viên năm thứ 3 mình có đi quân dịch, khám sức khoẻ thì ngày nay, pháp đã bỏ chế độ quân dịch 1 năm nên nếu có đánh nhau thì lính ở đâu ra. Không lẻ kêu mấy bà đầm cởi trần phanh ngực ra trước họng súng để lính nga đầu hàng. Mình xem phim đức, kể khi lính nga chiếm đóng Đức quốc thì ngày đêm lính nga hiếp dâm phụ nữ đức như hải tặc chận ghe vượt biên.
Những gì bắt đầu ở Sarajevo đã kết thúc ở Dresden. Ánh sáng không chỉ tắt; chúng đã được thay thế bằng ảo ảnh huỳnh quang về sự tiến bộ. Cái gọi là "Chiến tranh thế giới thứ hai" đã không khôi phục lại hòa bình. Nó đem đến sự khuất phục. Và thứ phải khuất phục không phải là một quốc gia, mà là một nền văn minh.
Những gì xảy ra sau năm 1945 không phải là hòa bình mà là sự chiếm đóng. Đệ tam Đế chế đã sụp đổ, nhưng bản thân châu Âu cũng vậy. Những gì xuất hiện là một lục địa bị khuất phục bởi chủ nghĩa tự do tiêu dùng của Mỹ và chủ nghĩa cộng sản quản lý của Liên Xô, cả hai đều xa lạ với truyền thống của Âu Châu. Ở phương Đông, các ủy viên đỏ đã xóa bỏ tổ tiên, cướp bóc những thứ thiêng liêng và xây dựng một sự nhại lại màu xám, vô hồn về cộng đồng loài người. Ở phương Tây, Coca-Cola và đô la thay thế cho kiếm và thánh giá. Cả hai hệ thống đều đào tạo thần dân của họ để quên đi. Cuộc chiến cuối cùng, cuộc chiến chống lại ký ức, đã khởi đầu mà hậu quả là ngày nay chúng ta thấy ở Âu châu.
Nỗi kinh hoàng thực sự của thời kỳ hậu chiến không phải là sự tàn phá về vật chất, mà là sự triệt sản về mặt tâm lý. Đức, trung tâm văn hóa và triết học của lục địa, đã bị nghiền nát với độ chính xác mang tính nghi lễ. Các thành phố của nó bị ném bom, đàn ông bị tàn sát, phụ nữ bị làm nhục. Quá khứ của nó bị coi là tội phạm, tương lai của nó bị phủ nhận. Và khi Đức ra đi, thì toàn bộ châu Âu cũng vậy. Những gì từng là Kitô giáo, sau đó là nền văn minh, giờ đây được định nghĩa lại thành một bảo tàng ngoài trời đầy tội lỗi, một bài giảng sống động chống lại chính nó. Nên nhớ Đức quốc là nơi ông Luther đã cải cách thiên chúa giáo.
Có lần có cô gái đức, con người quen sang ở nhà mình học anh văn hè. Cô ta kể là ở Hoa Kỳ điều cô ta ngạc nhiên là đi đâu cũng thấy chào quốc kỳ, treo cờ trong khi ở Đức quốc ngày nay thì không. Cô ta ước gì xứ cô ta cũng được dào tạo như tại Hoa Kỳ. Sự chia đôi đất nước, bên bị Hồng quân liên Xô chiếm đóng, một bên là do Hoa Kỳ chiếm đóng rồi sau 50 năm được thống nhất. Nên rất khó mà có tiếng nói chung về lá cờ hay quốc ca. Chúng ta cứ nhìn người Việt tỵ nạn, bên đi từ miền nam và bên đi từ miền Bắc, gặp nhau ở Luân Đôn, không ai muốn hát quốc ca của bên kia dù là nạn nhân của cộng sản.
Những người chiến thắng đã thiết lập một trật tự đạo đức mới, nơi mà việc ghi nhớ là phản quốc. Trường học dạy sự tự khinh miệt. Phương tiện truyền thông ca ngợi sự đảo ngược. Luật pháp cấm phòng thủ. Lịch sử được viết lại không phải để hiểu mà là để lên án. Lòng kiêu hãnh trở thành bệnh lý, lòng trung thành trở thành lòng căm thù, sức mạnh trở thành chủ nghĩa phát xít. Người châu Âu không còn coi mình là người thừa kế của Pericles, Charlemagne hay Dante mà là kẻ gây ra tội ác cho thế giới. Những gì từng là ánh sáng của thế giới đã phải bò trước bàn thờ của kẻ thù. Chú rồng hãi thức tĩnh kêu gọi họ lên tiếng chống lại lịch sử của cha ông họ. Họ không dám nói hay nhắc đến cha ông của họ. Phản động, phản quốc. Em mình ở Việt Nam, kêu là cũng không dám cho ai biết về ông cụ mình, được gọi là phả động, tù cải tạo 15 năm.
Điều này không phải là ngẫu nhiên. Đó là kết quả tất yếu của hai cuộc chiến tranh thế giới mà mục tiêu không chỉ là đánh bại các quốc gia mà còn là xóa bỏ bản chất quý tộc của châu Âu. Trật tự tổ tiên không thể được phép quay trở lại. Một dân tộc có khả năng ghi nhớ họ là ai, gắn bó với truyền thống và địa điểm, sẽ gây ra mối đe dọa đối với trật tự toàn cầu về tài chính, công nghệ và kiểm soát quản lý. Để ngăn chặn sự phục sinh, châu Âu đã phải bị cắt bỏ thùy não về mặt đạo đức, tràn ngập những đám đông nước ngoài và bị mê hoặc bởi đồ chơi.
Tuy nhiên, cuộc nội chiến chưa bao giờ thực sự kết thúc. Nó đã thay đổi hình thức. Ngày nay, nó hoành hành trên đường phố Paris, những tàn tích của Detroit, khu ổ chuột Malmö và các cơ quan hành chính của Brussels. Cuộc xâm lược không còn đến từ phía đông nữa mà từ bên trong. Quân đội không mặc quân phục. Vũ khí không phải là xe tăng mà là truyền hình, chính sách nhập cư và thuốc an thần. Giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến là về mặt tinh thần và nhân khẩu học, một cuộc chiến tranh nhằm vào những tàn dư cuối cùng của ý chí sống của châu Âu.

Nhưng ngay cả bây giờ, ký ức vẫn còn chập chờn. Có những người nhớ về trật tự cũ không phải như một câu chuyện cổ tích mà là một định mệnh. Họ thu thập những mảnh vỡ của nó, thì thầm tên của nó, tôn vinh những anh hùng của nó. Trong huyết quản của họ chảy dòng máu của những người đàn ông đã từng xông vào cổng thiên đường và xây dựng những nhà thờ lớn bằng đá và lòng dũng cảm. Nếu phương Tây được tái sinh, thì đó sẽ không phải thông qua chính sách hay phản đối, mà thông qua một thế hệ tinh hoa mới được rèn luyện trong đau khổ, im lặng và tưởng nhớ. Nội chiến vẫn chưa kết thúc vì linh hồn của châu Âu vẫn chưa chết. Hy vọng nhưng rất khó khi họ không sinh con đẻ cái và di dân thì tha hồ đẻ nên một ngày nào đó họ sẽ trở thành thiểu số trong đất nước của họ. Biết đâu, trăm năm sau, học sinh trung học sẽ học về lịch sử, cho biết vào những năm của thế kỷ 20, có một nhóm người như khi xưa Vikings, đã từng sống tại Âu châu. Xong om
Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen
Nguyễn Hoàng Sơn