Người hàng xóm Đà Lạt xưa


Hôm qua có ông thần gần xóm mình muốn kết nối trên Facebook khiến mình thất kinh. Lý do là nhà ông thần số 49 C Hai Bà Trưng, mình phải mất một thời gian khá lâu để tìm lại trong ký ức hình ảnh căn nhà của gia đình anh ta. Lý do là nhà gỗ được làm sau Mậu Thân. Cư xá ty Công Chánh chấm dứt với căn nhà số 49B của bác Ngọc, bên dãy số chẵn là số 50, nhà của ông Sâm, trưởng ty Công Chánh, bố của thằng Chiến mà mình hay chơi khi xưa hồi học tiểu học.


Mình đoán ông thần trên mình vài tuổi vì thấy là bạn của anh Hạnh, Chính Trị Kinh Doanh, người đi leo núi Kilimanjaro với mình. Có lần ông thần này hỏi mình về căn nhà màu đen của gia đình anh ta khiến mình như bò đội nón. Có nhiều người hỏi mình nhiều chuyện quái đản. Cứ làm như mình là ma xó của thầy Chiêm. Nghe kể, mệ ngoại mình lấy chồng xứ Xiêm-La, rồi buồn quá vì ông chồng có vợ bé hay sao đó, nên mệ ngoại ôm con về lại Việt Nam, đem theo cái tượng Phật về Huế. Bố của thầy Chiêm mới xin rồi nổi tiếng thầy bói từ đó ở Huế rồi truyền cho thầy Chiêm sau này vào Đà Lạt làm ăn. Sau này vợ thầy CHiêm qua đời nên thầy lấy em vợ cho trọn tình gia cảnh. Vợ thầy Chiêm mua lại cái xập của dì Bộ, cạnh hàng mẹ mình nên mình hay gặp thầy Chiêm khi xưa ở chợ. chiều ông ta ra đón vợ về.


Dì Bộ, khi xưa làm cho cô Ba CHỉ, tiệm Bình Lợi, để dành tiền, ra riêng, mua cái xập, rồi lấy hàng của cô Ba Chỉ bán. Đến khi lấy chồng, gặp thằng lười, đánh bài mắc nợ nên phải bán cái xập để trả nợ cho chồng. Khi xưa, ở Đà Lạt nhất là ngoài chợ, cảnh chồng đánh bài mắc nợ mình thấy hoài nên sau này, không bao giờ mình đánh bài.

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trao cung kiếm cho thủ khoa Nguyễn Đức Phống, khóa 22B. Anh này khi xưa mình hay ghé nhà anh ta ở cư xá Kiến Thiết. Thấy anh ta học. Ra trận đầu tiên chết. Hồi nghe anh ta đậu thủ khoa Võ Bị, mình cũng ham vào trường Võ bị nhưng mấy tháng sau nghe anh ta chết nên mình dám đi lính. 


Cạnh hàng dì Bộ, là hàng dì Liên, cũng một thời làm việc cho cô Ba Chỉ, tiệm Bình Lợi, bán dừa. Lúc mình đi Tây thì dì chưa chồng nên không biết sau này ra sao.

Trở lại ông thần ở số 49 C Hai BÀ Trưng. Mình đoán là nhà của thằng Hiếu, học Yersin với mình khi xưa, số 51 nên khi nhà ông thần xây căn nhà gỗ hai tầng, sơn verni để giữ cho gỗ tốt, khỏi mục nên lâu ngày thành màu đen. Do đó mới lấy số 49 C, thêm số của tiếp theo nhà của bác Ngọc là 49 B. Hồi đầu năm đi Úc Đại Lợi lại quên đi tìm bác Ngọc. Bác này khi xưa hay đánh bài với ông cụ mình, bạn đánh bài hay gọi bác là Rô-be, chắc tên thánh của bác. Lý do là có dạo hai người con gái của bác ở Úc có liên lạc với mình. Mình khi xưa có chơi với thằng Chân, con trai của bác, đến khi gia đình này đổi về Sàigòn trước 75 thì mất tông tích. Nghe kể thằng Chân bị pháo kích của Việt Cộng trong những ngày cuối cùng của chiến tranh và chết.








Kế nhà bác Ngọc 49B, là nhà bác Hân, có con gái khá đông. Chỉ nhớ chị Huệ, chị Hương học Việt Anh. Sau này chị Hương lấy ông Tôn Thất Trai, dạy toán ở trường Trần Hưng Đạo, cắm dùi miếng đất trước nhà, xây căn nhà nhỏ. Nghe nói sau này bán bún bò nổi tiếng lắm. Nay nghe nói ở San Diego nhưng mình chưa tìm lại được. có gửi i-meo qua nhóm thân hữu Đà Lạt nhưng không được hồi âm.

Giữa hai căn 49 B và 49 C là cổng vào vườn của bà làm vườn, không nhớ tên. Chỉ nhớ mình và thằng Khánh Ù, con ông Phúc, hò nhau ăn cắp  buồng chuối của bà ta, bị chửi mất dép cả tháng, rồi đem quăng  buồng chuối lại qua hàng rào. Chỗ này tới mùa bắp sú hay xà lách là xe hàng đến đậu rồi mấy người chặt sú, quăng lên xe. Thường là được những người có tiền ở Đà Lạt như bà Marcel, ở đường Phan đình Phùng, cạnh Ga-ra Phan Xứng bỏ tiền ra mua trước nên rẻ. Lý do là nhà làm vườn cần tiền để chuẩn bị cho đợt tới như mua phân bón này nọ, nên hay phải bán sú, hay choux fleurs trước khi đến mùa hái. Ở Đà Lạt , mình phục bà Marcel, bà ta lái xe hàng đi mua rau cải Đà Lạt chở về Sàigòn bán,… ông Marcel hình như có 3 vợ, 18 người con nên nuôi mệt thở. Có dạo mình học với Dương Quang Phước, sau qua Văn Học thì học với em hắn là Dương Quang Trí. Trí dễ thương lắm hay đi lái máy cày vì ông Marcel có vườn trên Đa Thiện. Anh chàng cày đất của bố mình xong, mấy nhà vườn bên cạnh nhờ cày luôn nên anh ta có tiền, lâu  lâu chạy qua nhà mình rủ đi ăn chè Mây Hồng, ở đường Tăng Bạt Hổ. Tên này kết chị Nga có bác Tám, chè Mây Hồng nên hay rủ mình là vậy. Sau này về Đà Lạt, mình có gặp Trí lại một lần thì mấy tháng sau nghe qua đời. Chắc uống rượu nhiều quá.


Ông thần 49 C nên biết khá nhiều người trong khu vực đó như anh Phống, thủ khoa Võ Bị, ra trận đầu tiên chết, hay trước nhà anh ta có bác gì quên tên, anh của bác Tô trên đường Thi Sách và nhà của hai dì Thanh Trúc, con bà gì quên tên. Mình có gặp lại dì Trúc tại Nam Cali sau này dì dọn ra Riverside thì hết gặp.


Nói chung ai đọc bài mình kể chuyện Đà Lạt xưa thì ít ai biết mình nên họ hay hỏi. Thậm chí như anh Ngọc, đai đen Thái Cực Đạo, ở xóm Pasteur, khi xưa đánh bóng bàn với mình hay đi ăn chè, cũng không nhớ cho nên mình quen cảnh thiên hạ cứ hỏi tông tích mình. Mới nhận được còm của anh Ngọc “Sony NguyenUsa Nhớ ra rồi, Sơn đánh bóng bàn hay, có lần hạ Hoàng mạnh Toàn ở nhả ô Nghi. Còn nụ cười khó nghe mình hay chọc AE khi đánh bóng bàn , có lần bác Tô nghe, góp ý với Toàn, sợ quá không dám cười nữa! Chắc gần 60 rồi!. Xung quanh xóm còn nhiều cái hay lắm; như trên Calmette có 3 người nổi tiếng : anh Ng Đức Quang( k1 CTKD- du ca), anh Huỳnh bá Tuệ Dương (k3 CTKD- phó ty KT và giảng ở CTKD Dalat), chị Lệ Khánh ( con ông Dương Mân- em là gái trời bắt xấu); xóm công Chánh có 3 người đẹp: Hoàng  Giang (đối diện nhà ô Lào ), Lâm Đồng (em Lâm Viên , ở sát nhà Sơn), Hải ( con mụ Đàn, cũng sát nhà Sơn) tuy không sắt như Bích Thuỷ (?) dốc Nga ba Chùa nhưng cung làm siêu lòng mấy anh thế he mình. Hôm nay nhớ rõ Ku Sơn rồi, chắc hết ‘ chán mớ đời’”.


Anh Ngọc nhắc đến Hoàng Giang, nghe nói đi vượt biển rồi mất tích luôn, Lâm Đồng con bà Hiển, em của anh Kiệt, an ninh quân đội, nghe nói sau 75 lấy ca sĩ Duy Quang thì phải, còn Hải con bác Đàn thì mình không biết vì đến ở sau 75. Mình chỉ nhớ nhà bên cạnh bà Đàn là nhà bà Ron. Em bác Phú, nay ở Seattle, trên 100 tuổi. Mình có gặp lại năm ngoái chị Mẫn, con của hai bác ở Seattle. Nay thằng Long xây căn nhà to đùng nơi sân khi xưa mình hay chơi bắn bi với đám trong xóm. Nghe nói con Thu ở căn nhà cũ nhưng thấy xây lại mấy tầng. Mình về không gặp lại, chỉ nghe nhà kể thôi.


Còn nhà Khánh Ù, con ông Phúc thổi kèn cho ban nhạc trường Võ Bị, bán lại cho con ông Thạc, cư xá Địa Dư. Ông Thạc tuy làm cho nha Địa dư nhưng cũng có cái xập, cuối tuần ra chợ làm thợ Hàn với ông Hai, anh thì phải. Làm mấy cái đồ tưới cây cho nhà vườn, gánh nước tưới cây. Ngoài chợ hay gọi ông Hai thợ thiếc. Hàn đối diện tiệm Bình Lợi của cô Ba Chỉ. Hai người này có người em út tên gì quên tên. Khi xưa thích dì Gấm, làm cho nhà mình. Nên hay lên nhà mình thỏ thẻ tán dì gấm. Đùng cái có tin dì Gấm mang bầu với ông Tư Thân, trên số 4, chạy giặc Mậu Thân xuống ở nhà ông Tước. Buồn đời anh ta đi lính và chết trước 75. Dì Gấm về Huế sinh con, được thằng con trai nên bà Tư Thân về Huế năn nỉ xin đem vào Đà Lạt nuôi. Nghe nói người con sau này vẫn ở Số 4.


Như có ai nói là cũng ở xóm Địa Dư nhưng sao không biết mình. Mình chỉ kể về xóm Địa Dư chớ đâu có ở cư xá Điạ Dư. Xóm này mình chỉ biết hai mạng là Phạm Ngọc Liên, học chung ở Yersin khi xưa và Văn Tài Phát. Liên thì mình có gặp lại tại Cali mấy lần, còn Văn Tài Phát thì mình có i-meo trước khi về Đà Lạt nhưng hắn ít khi xem i-meo nên khi mình rời Đà Lạt, hắn mới đọc thì quá trễ. Sau này có con của bác Nguyễn Văn Tước, hay chạy chiếc xe Lambretta, có liên lạc với mình. Mình có điện thoại cho bác Tước ở Gia-nã-đại, hỏi thăm dùm cho bố mẹ mình một lần. Nghe nói bác bây giờ đi đứng khó khăn. Ông thần Dũng này học trên mình vài năm, sau đi lính, ngành an ninh quân đội nên khá rành dân trong xóm , xóm trên xóm dưới. Hắn mê chị Lan, con bác Tân Gầy, số 47A, học Bùi Thị Xuân. Mình có hỏi muốn liên lạc không vì chị Lan nay ở San Jose. Mình cho điện thoại. Dân xóm Địa Dư thì mình có gặp lại một người rất nổi tiếng, làm lớn ở Việt Nam tại Hà Nội. Cô nàng cho biết là biết em mình, bố mẹ mình, hoá ra em của thằng Hùng mà mình hay đá banh khi xưa. Nhà sát nhà chú Be và ông Lào. Còn như gia đình chú Be, ông Lào thì mình không có dịp gặp lại. Lý do họ không biết mình, chỉ biết bố mẹ mình thôi. Còn Chú Be thì dọn đi đâu.


Xóm Địa Dư gồm 3 dãy nhà hai tầng, không nhớ mỗi dãy có bao nhiêu căn hộ, 3 hay 4. Phía trên thì có chiếc cầu gỗ đi từ đường Hai Bà Trưng đi vào, còn phía dưới thì phải đi xuống mấy thang cấp. Dãy đầu tiên, đi từ dốc Hai Bà Trưng thì mình chỉ nhớ có gia đình ông Thạc, thợ thiết với ông Hai. Có đường hẻm băng từ Hai Bà Trưng qua Phan Đình Phùng, sau đó đến dãy nhà Phạm Ngọc Liên và Văn Tài Phát. Sau này hình như gia đình Phạm Ngọc Liên mua được nhà bên đường Hàm Nghi nên dọn về bên đó. Sau dó có mấy thang cấp đến một sân lớn, mấy ông công chức khi xưa ở xóm này hay chơi Pétanque. Mình hay bò xuống đây bắn bi hay đá banh với đám con nít cùng lưới với mình. Chỗ này có nhà vệ sinh cho cả xóm. Hình như có 3, hay bốn nhà cầu, một phía có cái bể nước để bà con giặt quần áo. Sau đó thì đến dãy nhà ông Lào, Chú Be và TTM. Đến con đường hẻm đi qua đường Phan Đình Phùng, chỗ cái giếng vườn ông Ba Đà và bà Tôn Sanh, bà con chi với mẹ mình. Rồi đến xóm Công Chánh.


Năm 1992, về Đà Lạt lần đầu tiên thì mình có đến thăm gia đình bác Bửu Duy. Hình như có ai hỏi mình có nhớ đến anh Tý, con trai đầu của bác Duy, của bà trước. Nhớ chớ. Còn về thì nghe thằng Vinh, Dũng, con Hương chết. Thằng Hồ thì nghe nói di dân qua Mỹ, ở đâu Texas nhưng chưa gặp lại. Chắc còn nhỏ nên không nhớ mình. Con Hà thì ở Úc Đại Lợi. Có ghé thăm bác Nhị, cạnh nhà ông Lào. Nghe nói thằng Miều đã chết, còn thằng Toàn thì ở Hoa Kỳ thì phải còn thằng Bảo thì ở Vũng Tàu. Thằng Bảo học Yersin trên mình một lớp. Khi xưa, hai thằng nuôi vịt để bán. Vịt mình mới lớn một tí, ông cụ kêu người làm làm thịt nên mình mất vốn luôn, hết nuôi.


Ở Cali mình có gặp lại gia đình bác Bửu Ngự, tiệm Thanh Nhàn khi xưa ở khu Hoà BÌnh. Sang Cali, gia đình bác mở tiệm Thanh Nhàn tại Bolsa nên mình tìm ra. Mình nhớ ơn bác Bửu Ngự, khi xưa lúc ông cụ mình bị bắt, lên án 18 năm tù, không ai dám ghé nhà mình, sợ liên luỵ với gia đình phả động. Chỉ có bác Ngự ghé lại thăm và khuyên mẹ mình ráng giữ gìn sức khoẻ để nuôi bầy con 10 đứa. Mình có đi ăn đám cưới thằng Hội, con trai đầu của bác. Lấy Giáng Ngọc, con gái của nhạc sĩ Tùng Giang. Đám cưới này lạ lắm vì tổ chức ngày thứ 5. Lý do là các ca sĩ đi show vào cuối tuần. Con của hai bác đều thành công. Có cô con gái thứ nhì lấy con trai của đại tá Phạm Ngọc Thảo. Thiếu tá Phong, đại đội 302, tiểu đoàn 204 khi xưa, kể là đi ăn đám cưới, lần đầu tiên mới thấy bác Ngự gái cười. Nghe nói bác Ngự trai đã qua đời, còn bác gái nay trả nhớ về không. 


Mình có ghé thăm bác Tân Gầy, mẹ của thằng Đôn, hay đánh lộn với thằng Thọ, con ông cai trường Đa nGhĩa. Sau này nghe nói bác nằm một chỗ nên chỉ hỏi thăm cô con gái Út tên Tú thì phải. Nghe nói Bác cũng mới qua đời.

Mình có gặp lại thầy Trịnh Minh Đức, dạy Pháp văn mình khi xưa. Thầy là con của ông Điện, nhà bên cạnh bác Nhị. Gia đình dì Tân, bà con với mình, con bà Dụ, chị bà Võ Quang Tiềm thì mình gặp mỗi lần về Đà Lạt, có ông thần Thăng, bà con khi xưa hay chơi với nhau. Bên cạnh là nhà của ông Võ Văn Địch. Mình có chơi với Võ Việt Điểu khi xưa, anh tên Thắng, có liên lạc lại , nay ở Virginia. Nghe nói làm cho cơ quan CIA thì phải. Đinh gia Trực cho mình I-mèo của chị Lực nhưng lâu quá cũng không liên lạc lại. Ở xa quá, chỉ mừng là biết hàng xóm còn sống thôi.


Hàng xóm thì mình có gặp lại chị Hợp, chị Hiền ở san Jose, Hiếu, Hà còn bác Hoà. Tí Em, Nguyên con bác Tước, còn thằng Bi, Bé Lớn , Bé Nhỏ thì không. Chị Gái thì ở Cali nhưng lái xe mất cả 2 tiếng nên cũng chưa có dịp gặp lại. Chị Gái khi xưa hay cho mình mượn truyện để đọc. Về Sàigòn thì Tí Em và Nguyên mời đi ăn, cái tiệm rất ngon, có thực đơn dầy như cuốn tự điển bách khoa. Kỳ về Sàigòn qua, chỉ có 1 ngày ở Sàigòn nên tranh thủ gặp mấy người em họ bên ông ngoại mình. Hàng xóm có nhà bà Vinh nhưng từ khi dọn xuống CHi Lăng thì gia đình không còn liên lạc nữa. Bà Vinh có mấy người con như anh Thanh đi Pháo Binh, anh Tú, học khoa học ở Sàigòn, chị Tân, rồi đến thằng Tiến thua mình 1 tuổi, rồi đến con Tâm, con Tuyết. (Còn tiếp)

Mình được thiên hạ gửi cho đâu trên 2000 tấm ảnh về Đà Lạt xưa. Để khi nào rảnh mình lựa ra một số ảnh rồi kể chuyện đời xưa. 

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Tiến thoái lưỡng nan

 


Bom dội khắp nơi trên xứ Ba Tư khiến thiên hạ nhảy đùng đùng, kêu gọi người dân xứ 1001 đêm, xuống đường đánh đỗ chế độ thần quyền đủ trò. Kêu gào rất dễ vì chỉ ngồi nơi bàn, uống cà phê rồi lướt bàn phím tự xưng là người yêu chuộng hoà bình, mong muốn mọi người sống dưới chế độ dân chủ đủ thứ. 


Vấn đề là người dân xứ Ba Tư đang đối mặt một vấn đề rất khó khăn, không phải yếu tố chính trị mà là hiện sinh. Họ đang ở tình trạng tiến thoái lưỡng nan của hai cấu trúc đang sụp đổ không do họ định đoạt hay lập ra. Một là trong nước, một ngoài nước. Trong quốc nội họ phải đối mặt với một chính phủ do lãnh tụ tối cao và các thể chế không được người dân tự nguyện bầu.


Từ ngày cách mạng hồi giáo đánh đổ chế độ quân chủ năm 1979 đến nay, kinh tế được chế độ mới quản lý một cách yếu kém, thêm bị ngoại quốc cấm vận, một mặt người dân bị đàn áp bất đồng chính kiến và kiểm soát tư tưởng một cách tàn bạo đã khiến nhiều thế hệ xa lánh. Không ai tin vào cải cách nữa, tuyên truyền…


Có đọc một status của một phóng viên người Nga, ông ta đi đi lại lại vô xứ BA Tư nhiều lần để viết bài,… ông ta cho biết cảm thấy chế độ Ba Tư ngày nay như chế độ Sô Viết ở thế kỷ trước. Cái gì cũng mua chuộc, tham nhũng hết. Điển hình là các cô gái ăn sương, nghe nói sẽ bị ném đá chết này nọ nhưng trên thực tế đầy đường vì họ trả tiền cho các vệ binh cộng hoà hồi giáo chi đó. Hay cho hưởng chút của lạ đợi ngày lên thiên đàng gặp 72 trinh nữ. 


Hiện nay có một nghịch lý: người dân rất sợ chế độ sụp đổ, vì họ đã chứng kiến hậu quả của sự can thiệp của Tây phương vào các quốc gia như Iraq, Libya, Syria và Á Phủ Hãn, Yemen,.. nói chung là các nước lân cận trong vùng mà cựu tổng tư lệnh NATO, tướng Wes Clark tuyên bố họ cho ông ta biết chiến dịch đánh chiếm 7 nước ở trung đông sau vụ khủng bố 9/11. Năm nay Ba Tư là nước thứ 7 bị dội bom.


Mỗi quốc gia đều được hứa hẹn về tự do, dân chủ như hình ảnh tượng của Sadam Hussein bị kéo đỗ rồi mỗi quốc gia lại rơi vào hỗn loạn, nội chiến hoặc bị nước ngoài chiếm đóng. Vì vậy, người Ba Tư không tin tưởng Hoa Kỳ hay Israel. Không phải vì họ ủng hộ chế độ thần quyền, mà vì họ biết cách các thế lực đế quốc đối xử với các quốc gia 'giải phóng' ở Trung Đông. 


Theo ngôn ngữ của họ, tự do thường có nghĩa là chân không, hỏa hoạn và bất ổn vĩnh viễn. Hiện tại, nhiều người Ba Tư đang sống với ba sự thật cùng một lúc: Cộng hòa Hồi giáo đã phá sản về mặt đạo đức và chính trị. Các giải pháp thay thế do các tác nhân nước ngoài đưa ra không phải là giải phóng mà là sụp đổ. Một chính phủ tồi vẫn có thể tồn tại. Không có chính phủ nào không thể tồn tại vĩnh viễn.


Người dân thận trọng vì họ đã học được quá rõ điều gì sẽ xảy ra khi các siêu cường quyết định "giúp đỡ". Ba Tư là một quốc gia bị chính chế độ của mình bắt làm con tin, nhưng lại bị ám ảnh bởi số phận của những người hàng xóm. Họ bị mắc kẹt trong một ngôi nhà mà họ chán ghét, nhưng xung quanh là những đám cháy khiến họ sợ hơn.


Khi mình thấy hình ảnh tượng đài cha già dân tốc của Sadam Hussein, Khadafi,…bị người dân kéo xuống thì mừng cho người dân của họ thoát được chế độ độc tài nhưng vài tháng sau khi thấy dân tình thay vì hưởng được tự do lại lâm vào cảnh te tua hơn trước.


Từ đó mình thấy tốt nhất để dân họ tự xử, ngoại nhân đừng có xía vào. Các cường quốc nhân danh tự do dân chủ bú xua la mua để dành các mỏ dầu chớ hạnh phúc người dân bản địa thì họ đâu có kể.


Mình mới đi du lịch ở Trung Á về. Thấy các đường cao tốc và xe hoả do Trung Cộng đang xây dựng, xe vận tải từ biên giới Trung Cộng tràn sang, chở chạy khắp nơi. người Tàu qua mấy xứ này xây dựng đường xá, trong chương trình Vành đai và Con ĐƯờng.

23% dầu khí mà Trung Cộng mua hàng năm là từ xứ BA Tư dù bị cấm vận, Trung Cộng mua rẻ dưới giá thị trường. Ngày 25 tháng 5, 3 chuyến xe lửa chạy thẳng từ Trung Cộng đến cảng Asprin Dry của Ba tư chở hàng hoá. Và sẽ chở dầu hỏa về Trung Cộng chỉ mất 2 tuần lễ, thay vì đi đường biển mất cả tháng trời. 10 ngày sau đó thì họ bắt đầu xây dựng con đường xe hoả nối với Nga. Trục giao thông của BRICS sẽ được hoàn tất. 


10 ngày sau chuyến xe lửa đầu tiên nối con đường lụa của thế kỷ 21, bổng nhiên DO Thái và Hoa Kỳ bỏ bom xứ này. Tại sao họ không bỏ trước kia như với Syria và Iraq? Mình không tin vào sự ngẫu nhiên.

con đường lụa của thế kỷ 21 nối liền Trung Cộng và Ba Tư mà mình có dịp hiển thị tại mấy nước này ngoại trừ Ba Tư

Truyền thông Hoa Kỳ đem ông thái tử của ba tư ra kêu gọi nhân dân đánh đổ chế độ như khi xưa người dân đánh đổ chế độ của ông bố. Được Tây phương đưa lên sau khi lật đổ chính phủ dân chủ của thủ tướng Mossadegh, được người dân Ba Tư bầu lên. Ông này phạm một lỗi lầm là tin vào người Tây phương, vào nền dân chủ được kêu gọi giúp đất nước giàu sang.  Quốc hữu hoá các giếng dầu của British Petrolum để lấy tiền nuôi dân và phát triển đất nước. Dân chủ nhưng không được đụng đến quyền lợi của tao. 


Trong phim “my name is nobody” có cảnh một con chim con loay hoay rớt từ trên tổ chim xuống đất, đúng vào bão phân bò. Thối quá nên con chim vùng vẩy kêu toán lên. Từ xa một con sói nghe tiếng chim kêu gào, cầu cứu thế là hắn bò lại. Từ từ lượm con chim ra khỏi bãi cứt bò và bỏ vào mồm. Do đó khi lấy vợ, mình không kêu ca gì nữa. Chấp nhận làm thằng hèn sợ vợ. Chán Mớ Đời 


Có lần mình xem người ta phỏng vấn một người đàn ông Palestine, ông ta cho biết chỉ muốn có cuộc sống yên ổn, không muốn đánh phá DO Thái này nọ. Muốn đi xứ khác cùng với gia đình để tạo cuộc sống mới vì từ khi sinh ra đời, cứ thấy chiến tranh, chém giết nhau. Những kẻ cầm quyền, họ muốn chiến tranh hoài. Lý do để họ hưởng lợi. Yasser Arafat khi chết người ta khám phá ra bà vợ giữ tài sản rất nhiều ở Paris. Họ đoán là Do Thái đã giết ông ta chậm chậm với thuốc độc.


Cuộc tấn công ngày 7 tháng 10 năm 2023 đã khiến hơn 1,200 người Do Thái  thiệt mạng. Xin nhắc lại dân số Do Thái vào thời gian đó độ 9.75 triệu dân. Cứ tưởng tượng Việt Nam có dân số 100 triệu, gấp 10 lần do thái, trong một ngày có một đám khủng bố giết 12,000 ngàn người Việt thì quân đội Hà Nội sẽ tìm mọi cách để kiếm cho bằng được các con tin còn bị bắt và bỏ bom các nơi ẩn nấu của bọn khủng bố. Ngược lại người ta hoan hô nhóm Hamas, biểu tình trong đại học. 


Sự tàn nhẫn khi thấy dân Palestine ăn bom của do thái và chết. Nghe nói đến may đã lên trên 50,000 người. Người do thái không muốn bị diệt chủng và mình nghĩ đa số người Palestine chỉ muốn sống hòa bình nhưng ngoại quốc cứ xía vào xúi một thiểu số đánh nhau với do thái.    Ca ngợi nhóm Hamas trên nguyên tắc không đại diện cho người Palestine. Hay ở Hoa Kỳ dân số gấp 40 lần của do thái như có 50,000 người Mỹ bị giết và bắt cóc trong một ngày. Người Mỹ có xuống đường hoan hô nhóm khủng bố?


Tương tự ở Bolsa mình được giới thiệu nhiều người Việt từ Việt Nam, giàu có nhưng lại muốn sang Hoa Kỳ sinh sống. Con cái đều được cho du học tại Hoa Kỳ rồi ở lại, tạo dựng sự nghiệp. Mình không dám hỏi họ lý do.


Nói chung ai cũng muốn có môi trường tốt để họ sinh sống thay vì bị bắt buộc đánh nhau, giết người. 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nhs

Người xưa năm cũ

Cuối tuần rồi nói chuyện với bà cụ sau mấy tuần ở trên núi. Nghe mẹ mình kể là Bà Lào, xóm địa dư mới qua đời tuần trước. Xem như trong xóm nơi khu nhà mình ở thì thế hệ của mẹ mình nay chỉ còn mẹ mình và ông Mai, bố thằng Banh. Bà Lào cùng tuổi mới chết. Ông Lào hình như mấy năm trước cũng ra đi. Rất thọ.

Thầy Phạm Kế Viêm nay ở Pháp, còn thầy Hàn đã qua đời

Đường Hai Bà Trưng khi xưa toàn là các cư xá công chức, khởi đầu là cư xá của viện Pasteur ngay dốc Hai Bà Trưng, chỗ trường Nữ Công Gia Chánh. Có dạo mình tập Vovinam tại đây. Kế đến là khu cư xá của Nha Địa Dư, ty Công Chánh, rồi lên chút nữa gần trường Đa Nghĩa là cư xá của ty Bưu Điện và ty Kiến Thiết.


Cư xá Công Chánh và Nha Địa Dư gần nhau nên con nít của hai cư xá hay chơi với nhau và đánh lộn. Nhớ hồi nhỏ, xóm Công Chánh có thằng Dư, anh con Thuý, thằng Sửu và thằng Hiệp con ông Tô hay bắn bi, đánh lộn với đám xóm Địa Dư, khiến chúng rượt chạy về xóm, lấy ná bắn nhau. Đám con nít Địa dư, lấy đá quăng, rớt vào nhà vệ sinh công cộng, làm bể ngói, trời mưa bị dột. Mình còn nhỏ nên chỉ biết núp với thằng Đắc, con anh Bình, xem chúng bắn nhau. Thằng Sửu chơi bắn bi dỡ nhất, hắn cứ xúi mình mua bi để hắn bắn dùm. Chỉ nhớ tên Hiệp, con ông Tô là bắn bi giỏi nhất đám thêm hắn có tài làm diều giấy bóng. Hắn chơi đã rồi, kêu dụ mình mua con diều của hắn. Thả vài cái thì gió thổi cái bụp, con diều đứt chỉ bay qua mấy cái vườn sau xóm Địa Dư.

Chỗ thang cấp lên trường Văn Học Đà Lạt xưa.

Hôm trước buồn đời, có anh Ngọc, đai đen Thái Cực Đạo xóm Pasteur, còm hỏi mình là ai. Khiến mình thất kinh. Lâu lâu có người Đà Lạt còm hỏi mình là ai là chới với. Mình nhớ họ nhưng chả ai biết mình, ngoại trừ hàng xóm gần nhất. Như thằng Bi, con đại uý Hải, Đinh Gia Lành, nghe tên mình là hắn nhớ chiếc xe Bridgestone khi xưa, ông cụ mua lại của thằng Sửu, cắt ống Pô, chạy tiếng to inh ỏi. Hay anh Toàn con ông Tô, rể của bác Nguyễn Đình Thừa. Anh Ngọc cứ lênh bênh mấy ngày, còm qua còm lại, tự hỏi sao anh ta không nhớ mình, chỉ nhớ ông Châu bên cạnh nhà anh ta. Mình thì nhớ anh ta có giọng cười hề Văn Chung. Dạo hè cả xóm xúm nhau đánh bóng bàn ở nhà ông Nguyễn Văn Nghi, trồng răng. Anh ta cứ cười hé hé chát chúa mà 60 năm sau mình vẫn có thể nhái giọng cười của anh ta. Ông Nghi có người em trai tên Đức đánh bóng bàn khá, tay trái nhưng sau này mình hạ hết trong xóm. Hình như anh Ngọc, có cô em gái cùng tuổi với mình học BÙi Thị Xuân. Mình chỉ đánh bóng bàn thua Nguyễn Minh Dũng, con hai bác Nguyễn Đình Thừa.

Chỗ này trên đường Hải Thượng, bêb tay phải là cổng vào trường Việt Anh, nơi vợ thầy Viêm đưa thầy đi dạy rồi chạy ra cổng tông vào xe của mình đang chạy trên đường Hải Thượng. Cả hai đều không có bằng lái xe. Gần đi Tây mình mới thi bằng lái xe vì mới đủ 18 tuổi. Đến ty công chánh, bạn ông cụ kêu chở chạy vòng vòng, mình chả biết luật lệ gì cũng đậu. Đổi bằng quốc tế oai như Tây. Sang Pháp đem đổi bằng lái xe của Tây đến giờ.

Trong xóm Địa Dư, trội nhất là mấy đứa con ông Lào. Chỉ nhớ mỗi năm đến Trung Thu, là chúng cải trang giả làm ông Địa, rồi mấy anh em cầm trống đánh cà xình cà xình lắc cắc Tùng tùng múa Lân, dẫn đầu đám con nít trong xóm Địa dư đi rước đèn đến nhà ông Sâm rồi quay lại. Dạo ấy nhỏ nên phục chúng lắm. Chúng lớn hơn 2, 3 tuổi nên chả nhớ tên gì nhưng mình phục đám anh em này. Lâu lâu có đá banh với đám Địa Dư. Mấy tên con trai của ông Lào rất giỏi tính toán làm ăn. Khi ông Lào lãnh thầu đóng thùng gỗ để đựng rau cải xà lách bán cho Mỹ thì mình xuống nhà, mấy tên này sắp xếp cho mình đóng thùng rồi ghi sổ ra sao để ông Lào trả tiền. Dạo ấy vui, đi đến xóm Địa dư và Công Chánh là nghe tiếng búa đóng đinh đóng thùng gỗ. Nghe nói con ông Lào sau này đều khá hết, chạy xe hàng,…


Xóm Địa Dư khi xưa, hè mình hay chơi dích hình với thằng Banh, con ông Mai, em của ông Lào. Hình như ông Lào có hai cô em gái, quên tên. Ông ta có người em trai tên Út thì phải, ở khu nhà chú Hồng, số 15 Hai Bà Trưng, cạnh nhà thầy Thành Bắp Sú. Mình ghét tên này lắm. Lý do là tuần nào thứ hai hắn cũng bò lên nhà mình dụ ông bà cụ mình mua Lô Đề, hắn đi biên số Đề kiếm ăn. Mấy năm trời chỉ trúng có một lần. Mình thấy ông bà cụ chơi đề mà sót ruột, thua ná thở còn tên này thì cứ bàn mua con Dê số 35, con rắn số 32, nằm mơ thấy con vịt mua số mấy. Không biết còn sống hay không. Lâu lâu thấy chị thằng Banh, còm trên bờ lốc của mình. Mình không nhớ mặt mũi chị nó ra sao. Thấy tự giới thiệu thì nhớ mại mại. Nghe nói ông Mai nay về xóm ở để được con cháu săn sóc. Vườn tược dưới Phi Nôm không biết ai chăm sóc.


Nhắc đến thầy Thành Bắp Sú, nổi tiếng Đà Lạt. Mình có gặp lại thầy tại San Jose một lần khi họp mặt cựu học sinh Văn Học. Sau này thầy yếu nên không tham dự lần thứ hai và đã qua đời mấy năm trước. Hình như khi xưa thầy khởi đầu dạy ở trường Văn Học, sau đó thầy mở trường bán công Quang Trung. Có thời gian thầy ra ứng cử nghị viên hội đồng thị xã Đà Lạt, lấy danh hiệu “Bắp Sú”, đặc trưng của người Đà Lạt nên từ đó thiên hạ gọi thầy là Thành Bắp Sú. Sau này vượt biên qua Hoa Kỳ, định cư tại San Diego. Thầy không biết ông cụ mình khi xưa, mình cũng không có kỷ niệm với thầy ở Đà Lạt. 


Hôm trước có người còm nói khi xưa có học trường Hiếu Học. Số 8 đường Hai Bà Trưng do thầy Chử Bá Anh thành lập. Ông cụ mình có học đêm để thi bằng tiểu học ở đây. Nhớ tối tối mình đi đón ông cụ học ra. Sau này thầy Chử Bá Anh mở trường Văn Học ở số 4 Hoàng Diệu, để lại cho thầy Trần Đình Bảng, em rể, đổi tên thành trường Thăng Long. Nhưng rồi cũng dẹp vì Đà Lạt ra nhiều trường quá nên ít học trò. Không như hồi chia đôi đất nước.


Có ai gửi tấm ảnh thầy Phạm Kế Viêm và thầy Hoàng Trọng Hàn, chụp thời Đà Lạt. Mình có theo học khoá hè lớp 11 ở trường Việt Anh, chuẩn bị qua trường việt nên có học hình học với thầy Phạm Kế Viêm mấy tuần lễ. Thầy người Bắc, dạy trường Võ Bị Quốc Gia. Dư thời gian thì đi dạy luyện thi tú tài ở trường Văn Học vào buổi chiều. Dạo ấy môn toán là do thầy Viêm dạy, môn Vật Lý là thầy Thân Trọng Bình, người Huế đảm trách và môn Hoá Học do thầy Nguyễn Bào, người Huế dạy. Khóa hè đâu 8 tuần gì đó chỉ có thầy Viêm và thầy Bình dạy còn thầy Bào thì mình học với thầy trên viện đại học Đà Lạt mấy tuần trước khi đi du học. Còn môn hoá học ở Việt Anh, khoá hè thì có ông thầy nào quên tên, người Nam, học chung Nhật ngữ với mình vào buổi tối. Đi học Nhật ngữ thì anata watashi bú xua la mua vào lớp thì thầy em.


Dạo ấy, trường Văn Học có lớp luyện thi tú tài do 3 giáo sư Viêm, Bình, Bào đảm trách. Học sinh Đà Lạt cứ chiều là đến trường Văn Học học luyện thi của bộ Tam Sư này. Sau này, có vấn đề gì đó, 3 ông thầy này, không hợt tác với tường Văn Học, di tản qua trường Việt Anh. Thế là một số lớn học sinh Văn Học kéo chạy qua Việt Anh như Phạm Minh Tuấn, nhà ở khu giếng ông Ba Tây. Hắn rủ mình nhưng lười đi theo. Tên Tuấn nay ở Bôn Sa làm nghề khai thuế nhưng mình chưa gặp lại. Có điện thoại được 2 phút thì vợ hắn kêu cúp.

Lớp nơi mình học Nhật ngữ vào buổi tối khi xưa.

Mình có kỷ niệm khá sống động với cô Diệu Tâm, vợ thầy Viêm, chị bà con chi đó với dượng Ân, rể ông bà Phúng, ở Sydney. Số là khi xưa, chưa có bằng lái xe, nhưng mình vẫn lái xe Jeep của ông cụ, chở mấy đứa em đi học ở trường Hùng Vương vào buổi chiều. Một hôm chạy về nhà thì chạy ngang trường Việt Anh, bổng nhiên có chiếc xe con cóc VW từ trong trường Việt Anh chạy ra, tông xe mình cái rầm. Mình mặt xanh như đít nhái, ngừng xe lại, thấy chiếc xe của thầy Viêm, do cô Diệu Tâm lái. Mình thì run như nghe Việt Cộng pháo kích còn cô thì ngồi trong xe mặt như người xem phim ma. Ai đó chạy vào trường nói gì thì thấy thầy Viêm đi ra, gặp mình, hỏi con ông Đoài, tên ông cụ mình. Mình gật đầu, thầy kêu đi đi. Hú vía. Sau này có ai gửi cho mình bài viết của cô kể lái xe ở Đà Lạt, không có bằng lái xe. Kinh


Còn thầy Hàn thì có dạy mình năm 12 B môn anh văn. Thầy du học ở Hoa Kỳ về, kỹ sư nhưng dạy môn anh văn. Thầy có người anh tên Hoàng Trọng Cang làm lớn ở Đà Lạt. Có dạo thầy làm hiệu trưởng trường Trần Hưng Đạo sau đó được bổ nhiệm làm chức vụ lớn hơn về giáo dục ở Đà Lạt, không nhớ chức vụ. Năm 1986, sang Hoa Kỳ chơi, Chử Nhất Anh có cho điện thoại của thầy để mình gọi hỏi thăm. Thầy chả nhớ mình là thằng sơn đen nào vì học trò đông quá. Cách đây hai ba năm, có chị bạn học kêu đi ăn cơm với cô Xuân Lan, sang Cali thăm con cháu. Cô vẫn đẹp và vui vẻ như xưa. Hình như mình có người em học với cô khi xưa ở trung tâm giáo dục Hùng Vương.


Mình có kỷ niệm vui về thầy Hàn khi dạy anh văn. Hôm đó thầy dạy về số ít số nhiều thì phải thay đổi ra sao như “y” thì số nhiều đổi thành “ies”. Đặc biệt có những từ như Foot thì số nhiều là Feet, hay Tooth thì số nhiều là Teeth. Thầy nói tiếng Huế nên trong lớp chúng cũng đọc lại bằng giọng Huế. Mình mê nhất là khi thầy kể chuyện thời du học ở Mỹ. 


Trong Campus, có máy bán đồ ăn. Lúc đó ở Việt Nam đâu biết chỉ nghe thầy kể thì mượn tượng ra sao đến khi ra Hải ngoại mới biết cái máy gọi vending machine. Cái tủ rồi họ móc kẹo bánh hay chai nước uống với số mã. Mình muốn mua loại nào thì bỏ tiền vào rồi bấm số mã thì máy nhả món ăn đó xuống thùng, chỉ mở nắp lên lấy ăn. Thầy nói có tên bạn, cứ mỗi lần đi mua thức ăn, hắn lúc nào cũng tình nguyện hết. 


Sau khám phá ra hắn tới đập đập vào cái máy bị hư rồi thức ăn rớt xuống hay cà phê này nọ khỏi phải nộp tiền. Nay ở Hải ngoại thì bình thường nhưng dạo ấy, những gì thầy kể khiến mình càng náo nức muốn đi du học như thầy.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Lượm lặt trên đường đi Trung Á

Xem như mình đã đi viếng được 4 nước của Trung Á, chỉ còn Pakistan, Turkmekistan và Á Phú Hãn là chưa dám bước chân vào. Lý do bộ ngoại giao khuyến cáo người Mỹ không nên du lịch ở các nước này vì tình hình an ninh. Các nước này thường có chữ “Stan” ở cuối cùng, có nghĩa là đất đai, như chữ “land” trong anh ngữ. Như Ireland, England, Holland, Scotland,… tương tự người ấn độ gọi nước của họ là Industan. Buồn đời, người Việt đổi tên nước thành Vietnamstan cho có vẻ ngầu ngầu.

Mụ vợ gặp hai cô này bận đồ cổ truyền nên chạy lại xin chụp hình. Họ đi chung với mấy anh thanh niên, cầm đàn cổ truyền đi đâu đó.

4 nước Trung Á; Uzbekistan, Tajikistan, Kazakhstan và Kyrgyzstan từng là thuộc địa của đế chế Sa Hoàng và Liên Sô từ đầu thế kỷ 19 và dành độc lập khi Liên Sô tan rã năm 1991. Nhưng văn hoá của họ vẫn còn bị ảnh hưởng của Liên Sô. Người dân vẫn còn nói tiếng Nga, dù đi học thì được dạy bằng tiếng của họ. Chữ của họ được người Nga dùng mẫu tự cyrillic để biến đổi chữ viết của họ thay vì chữ của Ba Tư hay chữ Ả Rập. Mẫu tự cyrillic được các giống dân Slavic sử dụng, nguyên gốc từ Nhà Thờ Chính Thống, mẫu tự Hy Lạp. 


Khi xưa nhà thờ Thiên CHúa Giáo được thành lập khi hoàng đế La Mã Constantin thì chỉ có một nhà thờ nhưng rồi dần dần vì ảnh hưởng văn hoá La-tinh và Byzantium nên tôn giáo này bị chia cắt làm hai đến ngày nay. Và được gọi nhà thờ Vatican sử dụng tiếng La Tinh, và nhà thờ Chính Thống sử dụng tiếng Hy Lạp và đưa đến mẫu tự Cyrillic đến ngày nay. Khi xưa, học hình học nên mình đọc được mẫu tự Hy Lạp nên khi đi chơi ở mấy xứ này thì mò mò cũng ra được nhất là khi đi mua thuốc cho đồng chí gái ở các tiệm thuốc Tây. Họ viết theo chữ Hy Lạp nên mò ra ngay.

Cơm gọi Plov. Người ấn độ gọi Pilau.
Các tiệm ăn hay có mấy cái phảng che dù, ngồi ăn có nệm và gối, ăn xong buồn đời kéo màn lại ngủ một giấc dậy

Hỏi người dân sở tại có căm thù người Nga đã chiếm đóng xứ họ, dùng mẫu tự Cyrillic biến đổi ngôn ngữ của họ thì đa số lắc đầu, kêu người Nga giúp họ tiến lên, tham gia vào các trào lưu văn hoá, cũng như khoa học hiện đại. Hiện nay có phong trào muốn dùng ký tự của Thổ Nhĩ Kỳ để giúp họ canh tân xứ sở. Mình thấy có sự ảnh hưởng của Thổ Nhĩ Kỳ vì dân Thổ sang mấy xứ này mở các tiệm ăn Thổ Nhĩ Kỳ. Tương tự người Tàu sang Việt Nam hay các xứ Đông Nam Á buôn bán, mở tiệm ăn. Dân địa phương đi ăn cơm Thổ Nhĩ Kỳ như người Việt đi ăn cơm tàu. Nhớ khi xưa ở Đà Lạt, mỗi lần được bố mẹ cho đi ăn cơm tàu ở tiệm Như Ý hay Kim Linh ở cạnh rạp Ngọc Hiệp là sang trọng lắm. Dù chỉ ăn Tả Pí Lù.

Cảnh hồ Koulikalon mà gia đình mình mất 5 tiếng đồng hồ mới leo lên đây, sau đó nhảy cái đùng xuống tắm. Nước lạnh như đá lạnh. Cắm trại qua đêm. Kinh

Các nước này bị người Ả Rập đánh chiếm nên theo đạo Hồi Giáo đến khi ông thần Stalin lên thì cấm hết. Không có Allah gì cả, chỉ Stalin là chúa thôi. Sau gần 70 năm không được thờ phụng Allah nên người dân không cực đoan, bắt buộc theo luật Shahria của hồi giáo một cách máy móc như các nước lân cận như Ba Tư, Á Phủ Hãn hay Pakistan.


4 nước Uzbekistan, Tajikistan, Kazakhstan và Kyrgyzstan tuy ở sát bên, có chung tôn giáo là hồi giáo nhưng lại khác nhau như Việt Nam, Cao Miên, Lào và Thái Lan. Tuy theo đạo Phật nhưng lại khác nhau. Tajikistan bị ảnh hưởng của nước Ba Tư bên cạnh nên theo giáo phái Shiite trong khi Uzbekistan, Kazakhstan và Kyrgyzstan thì theo phái Sunnite. Tóm tắc kiểu Phật giáo tiểu thừa và đại thừa nhưng phức tạp hơn. Chớ kể rõ hơn thì tốn giấy và các bác cũng không đọc.


Về chủng tộc thì thời Liên Sô, mấy xứ này có đến 20-25% người Nga đến ở. Thời Sa Hoàng thì ít kiểu Việt Nam mình khi xưa, Chúa Nguyễn cho người nghèo khó đi về phía Nam ở Cao Miên, lập nghiệp. Đến thời cộng sản thì khác. Người gốc Nga bị cướp đất đai, đấu tố địa chủ cường hào ác bá và để sống sót, đi đến mấy nước này lập nghiệp. Phần Stalin lo ngại các chủng tộc MÃn Châu, thân trung hoa nên đày một số người Mãn Châu đến các vùng này như ở Uzbekistan có đến 50,000 người Mãn Châu bị đưa đến đây lập nghiệp. Hướng dẫn viên dịch là người Đại Hàn nhưng thật tế là người Mãn Châu, Mông Cổ. Người Triều Tiên cũng là gốc Mãn Châu , Mông cổ mà ra. Sau khi liên sô sụp đỗ thì người Nga trở về nước khá đông, nay chỉ còn lại độ 6%.

Cà chua, cà tím nhiều
Món này chỉ là bột chiên chấm vớt ya-ua, ăn ghiền

Về ngôn ngữ thì mấy nước này hơi ná ná nhau nhưng thường thì họ khạt vài tiếng của nước họ mà người bên kia không hiểu thì họ dùng từ ngữ Nga La tư. Nói chung muốn giao thiệp với người sở tại thì nên biết tiếng Nga. Như biết tiếng pháp dễ nói chuyện với dân sở tại tại Đông Dương, thuộc địa cũ của pháp. Khi đi Cao Miên, gặp người Miên lớn tuổi thì mình nói tiếng Tây thì họ hiểu còn nay giới trẻ chắc nói anh ngữ nhiều hơn. Mấy hướng dẫn viên tại Trung Á, được công ty du lịch mướn, đa số là giao viên anh ngữ tại trường, hè họ đi làm thêm nên không có vấn đề ngôn ngữ. Chỉ khi nào mình muốn giao tiếp với người địa phương thì có vấn đề nhưng ngày nay, có ông thần Google nên cũng đỡ. Lấy điện thoại scan chữ Cyrillic thì google dịch ra anh ngữ cho mình nên cũng đỡ. Gặp người thường thì họ hỏi mình biết tiếng ruski thì chỉ biết niet rồi lấy gú gồ ra tra thôi.

Phong cảnh tại Kazakhstan, leo đồi leo núi thấp hơn Tajikistan 

Về thắng cảnh thì núi rừng, Tajikistan được xem là đẹp nhất, núi cao nhất. Mình chỉ đi 7 ngày vùng phía Tây Tây của xứ này, còn phần phía đông dài hơn nhưng chắc để khi sau và cũng có thể không bao giờ. Về văn hoá, kiến trúc cổ xưa như các nhà thờ hồi giáo, thành chống giặc xâm lăng thì phải viếng Uzbekistan, quá đẹp. Có nhiều di tích lịch sử không thua gì xứ Ba Tư. Kazakhstan thì là nước to lớn nhất vùng này lại ít dân, thuộc loại văn minh du mục khi xưa. Chỉ khi người Nga chiếm đóng, muốn kiểm soát người dân nên bắt họ dừng chân, trồng trọt canh nông. Phong cảnh khá đẹp như vùng Arizona và Utah nhưng không to lớn vĩ đại như ở Hoa Kỳ nên mụ vợ cứ rên, so sánh không bằng Hoa Kỳ. Còn Kyrgyzstan thì sát biên giới với Nga Sô nên ảnh hưởng khá nhiều của xứ Nga.


Về chủng tộc thì đa số người dân Uzbekistan và Tajikistan có nét của người ba tư trong khi người Kazakhstan và Kyrgyzstan thì giống người Mông cổ nhiều hơn. Có độ 5-6% người gốc Nga còn sinh sống tại đây. Có đêm ngồi ăn uống xong thì ông tài xế gốc Nga, đứng lên đọc một bài thơ của Pushkin. Ở Kyrgyzstan bà hướng dẫn viên gốc Nga, cho rằng người gốc Nga nhất là phụ nữ ít lập gia đình với người địa phương. Lý do là vì tôn giáo. Bà ta ngạc nhiên khi mình nói có đọc Chekhov, Tolstoy, Pasternak, Dostoevsky như khi nghe mình nói đến Solzhenitsyn thì bà nhảy đùng đùng kêu không hay, nghi ngờ nên nghĩ bà ta vẫn yêu chuộng chủ nghĩa Mát xít. Đặc biệt chỉ có xứ Kyrgyzstan là vẫn còn giữa các tượng đài như LÊNIN, Karl Marx, Engel và các lãnh đạo cộng sản từ 1917 đến nay.

Phong cảnh như ở Thuỵ Sĩ và Áo Quốc
Lều du mục đẻ ngủ qua đêm, họ gọi là Yurt

Mình thấy chương trình Vành Đai và Con Đường của Trung Cộng xây dựng từ mấy năm qua như đường cao tốc nối liền biên giới Trung Cộng xuyên qua mấy xứ này đến Ba Tư. Xe tải từ Trung Cộng chạy qua biên giới đông như người Tàu. Dân tình hay ra vùng biên giới để mua đồ, không thuế và rẻ.


Về thực phẩm, đa số là họ ăn thịt nướng Kebab, rau cải thì toàn là dưa leo và cà chua nhưng ngon hơn ở Hoa Kỳ vì được hái khi chín thay vì hái non như ở Hoa Kỳ nên cà chua còn màu Hồng, không có hương vị gì cả. Nói chung thức ăn của họ không cầu kỳ lắm. Do đó họ thích ăn cơm Thổ Nhĩ Kỳ.

Chụp hình kỷ niệm biết đâu kiếp trước gia đình mình thuộc giống dân Mông cổ

Đạo hồi nên họ không ăn thịt heo do đó các dồi trường đều làm bằng thịt bò, hay thịt ngựa do đó có màu Hồng Hồng đỏ đỏ thay vì trắng như thịt heo. Ở Kazakhstan thì xứ du mục nên họ ăn thịt ngựa rất nhiều. Chạy bên đường nơi vùng thảo nguyên, thấy họ nuôi ngựa nhiều, có vùng đất có nhiều khoáng chất nên thấy ngựa ăn đất để có khoáng chất.


Mình có ăn mấy món được xem là truyền thống của họ như Beshbarmak, phải ăn bằng tay kiểu người hồi giáo gồm thịt cừu, hay ngựa. Awn với mì từng miếng như người ý làm để gói tortellini,… họ hay cho mình ăn trưa ở các homestay, nhà người dân tỏng làng khi chạy ngang cho có vẻ chính gốc và khỏi mất thời gian. Xe chạy, hướng dẫn viên đoán chừng bao lâu đến thì gọi điện báo cho chủ nhà. Xe những chỉ cần đi vệ sinh là có món ăn nóng hổi. Ăn tráng miệng thì họ chả có gì ngoài ba cái bánh quy hay kẹo vớ vẩn. Bữa ăn thường là món xà lách, cà chua và dưa chuột thêm chút rau gì đó như rau ngò rồi món chính.

Hồ Son Kul dài 60 cây số, được xem là hồ trên cao nhất của vùng này ở 12,000 cao bộ
Phong cảnh chỗ ngủ lều qua đêm

Ngoài ra có món Plov, cơm với thịt cừu hay thịt bò, cà rốt, hành và các gia phụ, được nấu trong Kazan, nồi đặc biệt. Ở Samarkand, mình ăn món này ngon nhất. Chiều thường họ cho ăn súp. Nhớ ở Artuch trên núi, họ cho ăn món Borsch của người Nga ngon không thể tả được.


Ngoài ra ở gần biên giới của Trung Cộng có ăn món Lagman, mì sợi làm bằng tay nấu với thịt, rau quả và gia vị của người Uyghur. Món đó rất ngon, hơi cay. Thêm có món Samsa, người Ấn Độ gọi Samosa, Tây Ban Nha gọi empanada, thịt bằm được gói bằng bột mì rồi bỏ lò nướng như pâté cháu của Tây.


Về thức uống thì bị ảnh hưởng con đường tơ lụa nên họ uống trà rất nhiều. Cà phê chưa thông dụng lắm. Họ gọi trà là “Chay” từ tiếng tàu là chà. Nhưng họ uống với đường như mấy người ả rập. Chắc vị đắng hay chát tương tự người Mỹ uống cà phê với đường hay sữa cho bớt đắng. Ngoài ra họ uống một loại sữa chua được gọi là Kymyz, nghe nói rất tốt cho sức khoẻ. Vào tiệm ăn sang thì họ hay đem ra trước tiên để mình uống hay đi ngoài đường thấy ở các góc phố họ bán dạo loại Maksym, loại hạt bị lên men. Uống cho biết. Chiều thì dám uống chớ trưa sợ nhiều khi không quen bụng, lỡ phải đi vệ sinh nên hơi ngại nhưng rất ngon kiểu ya-ua vậy thôi không có đường.

Đây ở góc đường, khắp nơi họ bán loại nước maksym
Kiểu hoành thánh, chắc do mấy anh ba tàu truyền từ mấy ngàn năm

Trà thì họ đưa cho cái chén nhỏ gọi là piala để uống. Trà thì có trà đen và xanh. Xanh đây là jasmine chớ không phải trà xanh matcha của người Nhật. Thường họ đem ra thêm bột chiên gọi là boorsok, như bánh tiêu của người Tàu nhưng nhỏ hơn. Ở karakol, tại khách sạn họ cho uống loại trà, ngọt nấu với loại trái khô như trái mơ, cộng thêm một số rau cỏ gì đó, chắc do mấy anh ba tàu truyền nghề. Uống rất thơm. Mụ vợ mình thích lắm nhưng khi đi tìm mua thì không có.


Ăn tiệm họ cho ngồi trên mấy cái phảng và có cái bàn thấp gọi là dastorkhon. Có lần họ dẫn đến chỗ nào tiệm ăn, có mấy cái chòi trên bờ dưới ruộng. Mỗi gia đình một cái chòi leo lên phảng ngồi ăn nhìn ra hồ. Trời nóng nên cũng bớt nóng. 

Thằng con kêu gia đình mình như kẻ du mục, 3 tuần lễ chạy qua ba nước ở Trung Á. Để lại nhiều kỷ niệm khó quên cho gia đình.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn